Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 56
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
111
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm ba mươi mốt, ḍng thứ ba
từ dưới đếm lên:
“Vị
giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê. Thường tập tương
ứng vô biên chư hạnh” (v́
dạy Bồ Tát, làm A Xà Lê, thường tập vô biên các
hạnh tương ứng). Trước kia, tôi chia hai câu
kinh văn này thành hai đoạn:
- Kể từ “thăng Quán Đảnh giai” là thọ kư sự
hộ tŕ của Phật. “Thăng
Quán Đảnh giai, thọ Bồ Đề kư”, hai câu
này là thọ kư. “Vị giáo
Bồ Tát, tác A Xà Lê”, hai câu này là “thị giáo”, tức là thực hiện sự giáo
học cho mọi người thấy, nêu tấm
gương tốt đẹp.
- Câu kế đó là “thường tập tương
ứng vô biên chư hạnh” nói đến sự
tương ứng. Giáo học nhất định phải
tương ứng, tương ứng với Tánh
Đức.
Chúng ta xem lời chú giải
của Hoàng lăo cư sĩ: “A
Xà Lê dịch vi Giáo Thọ” (A Xà Lê dịch là Giáo Thọ),
A Xà Lê (Ācārya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa
tiếng Hán là Giáo Thọ, tức là tiếng xưng hô dành
cho một vị thầy trong nhà trường. “Hựu dịch Quỹ Phạm
Sư” (c̣n dịch là Quỹ Phạm Sư), dịch cách
khác, ta cũng thường đọc thấy cách dịch
này trong kinh điển. Quỹ (軌) là quỹ đạo (đường
lối), Phạm (範) là mô phạm, [chữ Quỹ Phạm
Sư hàm ư] tư tưởng, kiến giải, và ngôn
hạnh của vị thầy ấy có thể làm
gương cho chúng ta, làm mẫu cho học tṛ, cũng
như làm nề nếp cho học tṛ học tập.
Chẳng thể lệch khỏi quỹ đạo,
nhất định phải đi theo quỹ đạo,
giống như xe lửa quyết định chẳng
thể rời khỏi đường rầy, bao hàm ư
nghĩa này! Tiếp theo đó là lời giải thích: “Năi quỹ phạm chánh hạnh, vị Tăng sư phạm
giả chi tôn xưng” (tức là
nêu chánh hạnh khuôn phép, là tiếng tôn xưng vị
thầy làm khuôn mẫu cho Tăng chúng), là thầy
của người xuất gia. Nói theo thực tại th́
cũng là như chúng ta thường nói “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”
(học làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho
cơi đời), “quỹ
phạm chánh hạnh” chính là “hành
vi thế phạm”, “vi
tăng sư phạm” là “học
vi nhân sư”. Do đó, A Xà Lê là tôn xưng.
“Thông
chỉ giáo thọ thiện pháp chi sư” ([là từ
ngữ] chỉ chung các vị thầy truyền dạy pháp
lành), định nghĩa ở đây rất rơ ràng và
cũng rất đơn giản: Ngài là vị thầy
truyền dạy thiện pháp th́ mới có thể gọi là
A Xà Lê. Cũng có khi tỉnh lược, gọi là Xà Lê,
cũng được, chúng ta thường thấy gọi
là Xà Lê. “Kim kinh thừa ‘thăng
Quán Đảnh giai’ nhi ngôn, năi chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê,
hựu xưng Kim Cang A Xà Lê” (trong kinh này, do nói tiếp
ngay theo câu “lên địa vị Quán Đảnh”, nên
[chữ A Xà Lê ở đây] chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê, c̣n
gọi là Kim Cang A Xà Lê). Trong phần trước kinh này,
đă nói “thăng Quán Đảnh
giai”, Mật Tông thường nói như vậy. Do
vậy, kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ là Viên
Giáo, giáo nghĩa của tám giáo Đại Thừa
đều được bao hàm trong ấy. Bởi lẽ,
trong kinh này có giáo nghĩa Mật Tông, có giáo nghĩa
Thiền Tông, như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Pháp Tướng Duy
Thức, cho đến Luật Tông, thảy đều có.
V́ thế, từ các câu kinh văn, chúng ta thường có
thể thấy và hiểu kinh này mới là kinh điển
chí cao vô thượng đại viên măn. Do tiếp ngay theo
câu “thăng Quán Đảnh
giai, thọ Bồ Đề kư” trước đó, nên
cũng có thể nói [chữ A Xà Lê] ở đây [dùng theo
ngữ cảnh] Mật Tông, chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê, c̣n
gọi là Kim Cang A Xà Lê.
“Năi
thiệu thừa Kim Cang Tát Đỏa tổ vị, tác
truyền pháp quán đảnh giả chi xưng hiệu”
(chính là cách gọi người kế thừa ngôi vị
Tổ của ngài Kim Cang Tát Đỏa làm người
truyền pháp quán đảnh), đây là một cách xưng
hô trong Mật Tông, [tiếp nối] Kim Cang Tát Đỏa
tổ vị. Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) c̣n được
gọi là Kim Cang Thủ Bồ Tát (Vajrapāni). Chân Ngôn Tông là Mật Tông. Trong tám
vị tổ sư của Mật Tông[1],
đây là vị tổ đời thứ hai. Đại
Nhật Như Lai là đệ nhất tổ, là sơ
tổ, Kim Cang Thủ Bồ Tát là nhị tổ. Vị
tổ sư này có quan hệ rất mật thiết với
Hoa Nghiêm, v́ Ngài chính là Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh Hoa
Nghiêm. Phổ Hiền Bồ Tát là nhị tổ trong Mật
Tông. Trong Mật Tông, không gọi Ngài là Phổ Hiền, mà
gọi là Kim Cang Tát Đỏa, hoặc là Kim Cang Thủ
Bồ Tát[2].
Hiển và Mật là một Thể, Mật là Mật
của Hiển, Hiển là Hiển của Mật. Nói cách
khác, Hiển giáo là hiển thuyết của Mật Tông.
Mật Tông là mật thuyết của Hiển Giáo, là
một, không hai! V́ sao có nhiều phương thức giáo
học như thế? V́ căn tánh của chúng sanh khác nhau.
Pháp Thân đại sĩ, chư Phật Như Lai luôn tùy
thuận tâm của chúng sanh để ứng với
khả năng nhận biết của họ. Nói cách khác,
Pháp Thân Bồ Tát, chư Phật Như Lai quyết
định chẳng khởi tâm động niệm, chúng ta
nhất định phải nhận biết rơ ràng điều
này.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện trên địa cầu này, chúng ta nh́n vào giai
đoạn lịch sử ấy, trong tám tướng thành
đạo, tướng thứ bảy là Chuyển Pháp Luân.
Từ cung trời Đâu Suất giáng hạ, có khởi tâm
động niệm hay không? Chẳng có. Nếu khởi tâm
động niệm, Ngài là phàm phu, không chỉ chẳng
thể xưng là Phật, mà ngay cả danh hiệu Pháp Thân
Bồ Tát cũng chẳng kham nổi! Chứng đắc
Pháp Thân, Pháp Thân là ǵ? Tất cả hết thảy hiện
tượng trọn khắp pháp giới hư không giới
đều gọi là Pháp Thân. Pháp là vạn pháp, vạn pháp nhất
Thể th́ gọi là Pháp Thân. Đến khi nào quư vị có
thể chứng đắc, [sẽ nhận biết] nó (Pháp
Thân) ở ngay trước mặt, chưa hề rời
khỏi. V́ sao chúng ta mê? Do đă mê nên mới có phân biệt,
mới có chấp trước, mới có khởi tâm
động niệm. Phân biệt, chấp trước là
trật rồi, chẳng biết vạn pháp và chính ḿnh là
một Thể! Khi nào quư vị đă giác ngộ, nói theo
Phật pháp là “thật sự buông khởi tâm động
niệm, phân biệt, chấp trước xuống”, khi
ấy, quư vị liền biết khắp pháp giới hư
không giới và chính ḿnh là một Thể. Như trong Hoàn
Nguyên Quán đă nói, vũ trụ rốt cuộc là chuyện
như thế nào? Vốn là một Thể, từ một
Thể khởi ra hai tác dụng. Hai tác dụng ấy,
một là chánh báo, hai là y báo. Chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn
cảnh mà chúng ta nương tựa vào để sinh
tồn và hoạt động. Tiểu hoàn cảnh là
một gia đ́nh, đại hoàn cảnh là toàn thể
vũ trụ. Những thứ ấy do đâu mà có? Từ
một Thể hiển lộ.
Hiển lộ như thế
nào? Đă mê bèn hiện, đă giác ngộ sẽ chẳng
hiện, chẳng c̣n nữa. V́ thế, trong Chứng
Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói rất
hay: “Mộng lư minh minh hữu
lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo), mộng
là mê! Khi mê, rơ ràng có lục đạo luân hồi, có
mười pháp giới. “Giác
hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi
rỗng toang hoang), sau khi giác ngộ, sẽ chẳng c̣n
nữa. Sau khi đă giác, sẽ là cảnh giới ǵ?
Cảnh giới Thường Tịch Quang, là cảnh
giới cao nhất trong Tịnh Độ Tông chúng ta,
Thường Tịch Quang! Thường Tịch Quang là
tự tánh, đă giác ngộ bèn trở về tự tánh. Khi
đă mê, từ tự tánh biến hiện một hiện
tượng hư huyễn, chẳng thực tại,
hiện tượng ấy được gọi là
“mười pháp giới”. Bất luận là chánh báo hay y báo,
đức Thế Tôn dạy, chúng có các đặc tánh,
được gọi là “tam
biến” (ba thứ trọn khắp), tức “tam chủng châu biến”:
1) Thứ nhất là trọn khắp pháp
giới. Trọn khắp pháp giới là ǵ? Nói theo danh từ
khoa học hiện thời là “năng lượng” hoặc
“dao động”. Bất luận hiện tượng
vật chất hay hiện tượng tinh thần, toàn
bộ đều do dao động biến hiện.
Chẳng có dao động, sẽ chẳng có cảnh
giới ấy, chẳng có A Lại Da. V́ thế, một
niệm bất giác th́ sự bất giác ấy là dao
động, nên mới sanh ra hiện tượng, phát sanh
hiện tượng tinh thần và hiện tượng
vật chất. Quư vị thấy sự dao động
ấy có tốc độ lớn chừng nào? Rất nhanh!
Ư niệm vừa mới dấy lên bèn trọn khắp pháp
giới, v́ sao? Pháp Tánh là một Thể, là tự tánh thanh
tịnh viên minh thể, là một Thể. Người Trung
Quốc có nói: “Khiên nhất phát
nhi động toàn thân” (lôi một sợi tóc mà
động toàn thân), chúng ta kéo một sợi tóc, toàn thân
đều cảm thấy đau đớn. V́ sao? Nó là
một Thể. Cho nên một niệm vừa khởi bèn
trọn khắp pháp giới. Pháp giới và chính ḿnh là
một Thể; do vậy, gọi là Pháp Thân. Quư vị đă
thừa nhận Pháp Thân, khẳng định nó, chẳng
hoài nghi chút nào. Vạn sự vạn vật trong khắp
pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể,
đó gọi là “chứng
đắc Pháp Thân”.
Người chứng
đắc Pháp Thân bèn thành Phật. Nay chúng ta nghe đức
Phật dạy trong kinh như thế, vẫn chẳng
thừa nhận. Ai thừa nhận vạn sự vạn
vật và chúng ta là một Thể? Chẳng có ai thừa
nhận, đó là ǵ? Phàm phu. Nếu quư vị hỏi Pháp Thân
Bồ Tát, hỏi chư Phật Như Lai: “Núi, sông,
đại địa, cây cối hoa cỏ có cùng một
Thể với quư vị hay không?” [Các Ngài sẽ đáp]:
“Đúng vậy. Chẳng sai tí nào! Đúng là một
Thể”. V́ sao? Bất luận tinh thần hay vật
chất của chúng ta, nhục thân là một hiện
tượng. Một niệm vừa động [trong tâm ta],
toàn bộ các hiện tượng đều nhận
biết [ư niệm ấy], núi, sông, đại địa
đều biết. Nếu không biết th́ tốt quá, v́
sao? Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, [do các hiện tượng
đều không biết nên] núi, sông, đại địa
sẽ chẳng có nhiều phiền phức như thế!
Lại nữa, động đất, phong tai, thủy tai
ǵ ǵ đi nữa, do chúng chẳng có tri giác, sẽ không có
những hiện tượng [tai nạn] ấy. Chính v́
chúng ta vừa động một niệm, chúng nó biết
ngay, nên có phản ứng. Chúng ta dấy động một
thiện niệm, chúng có thiện phản ứng. Chúng ta dấy
động một niệm bất thiện, chúng liền
phản ứng bất thiện. Ư niệm tham lam,
nước hiện tiền, nên thủy tai hiện
tiền. Ư niệm sân hận, núi lửa bùng nổ, nhiệt
độ tăng lên. Ư niệm ngu si, phong tai hiện
tiền. Ngạo mạn là động đất. Các tai
nạn thiên nhiên là do ư niệm bất thiện của chúng
ta dẫn khởi! Nếu ư niệm của chúng ta tốt
lành, sẽ đúng như đức Phật đă dạy: “Tức diệt tham, sân, si,
cần tu Giới, Định, Huệ” (dứt diệt
tham, sân, si, siêng tu Giới, Định, Huệ), núi, sông,
đại địa và thế giới Cực Lạc bèn
như nhau.
Đại địa kiên cố
nói trong kinh Địa Tạng sẽ không bị loạn,
sẽ chẳng có động đất, cũng không có
thủy tai, hạn hán, chẳng có những t́nh h́nh như
thế, mà là mưa ḥa, gió thuận. Là v́ tất cả
hết thảy hiện tượng vật chất và
hiện tượng tinh thần giống như
được nối vào mạng lưới Internet
của chúng ta trong hiện thời, hễ ta vừa
động, toàn bộ chúng nó đều biết. V́
thế, toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một
Thể. Toàn thể vũ trụ là sống động,
chẳng chết cứng, nó có thể thấy, nghe, hiểu
ư nghĩ của con người. Mấy năm
trước, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bản đă làm thí nghiệm với nước,
phát hiện nước là vật chất, nhưng có
thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ con người, biến
hóa theo ư niệm của chúng ta. Nước có thể
[phản ứng như vậy]. Lại xét tới những
hiện tượng vật chất khác, chúng đều có
thể, cây cối, hoa, cỏ cũng có thể. Có
người đă thí nghiệm trên hai cây bồn tài (bonsai).
Đối với hai cây bonsai, dùng thời gian và
phương thức vun bón giống hệt như nhau. Vun
bón thành công, quư vị thấy hai cây giống như nhau,
đem chúng làm thí nghiệm. Hai chậu đặt ở hai
góc pḥng. Bên này đặt một chậu, quư vị mỗi
ngày cười với nó, nói: “Ta rất thích ngươi,
rất yêu mến ngươi”. C̣n với chậu kia th́:
“Tao ghét mày quá, chẳng ưa mày!” Sau hai tuần, chậu
mỗi ngày cười với nó sẽ hết sức
tươi tốt. Chậu mỗi ngày bị quở
đáng ghét sẽ dần dần khô héo, chết khô. Quư
vị thấy đó: Cây hiểu ư niệm của con
người! Đó là nói về cây cối, hoa cỏ. Chúng
tôi hiểu đạo lư này; v́ thế, tại Úc, chúng tôi
trồng một vườn rau lớn, và cũng trồng
rất nhiều cây ăn trái. Vườn rất lớn,
trồng hơn ba mươi loại cây ăn trái. Chúng tôi
hiểu rơ đạo lư này, để cho hoa, cỏ, cây
cối mỗi ngày đều nghe Phật hiệu, hoặc
mỗi ngày nghe nhạc Phật giáo. Chúng tôi đi qua,
đều gọi hoa, cỏ, cây cối là Bồ Tát, cung
cung kính kính, cây cối bèn sanh trưởng thật tốt.
Chúng tôi chẳng dùng phân bón hóa học, cũng chẳng dùng
thuốc sát trùng, hoa nở rất đẹp, quả phát
triển rất tươi ngon. Những nông dân trồng cây
ăn quả ở gần đó đến thăm chúng tôi,
đều kinh ngạc: “Các vị dùng phương pháp ǵ mà
trồng ngon lành như vậy?” Sau đấy, chúng tôi
bảo họ, dùng thiện tâm thiện ư để vun
bồi. V́ thế, thiện tâm thiện ư đối với
núi, sông, đại địa, chúng sẽ không bị
loạn động, chẳng có những tai nạn. Chúng ta
phải hiểu đạo lư này.
“Tương
ứng” có nghĩa là “khế hợp”. Trong Phật pháp,
nói theo Đại Thừa Phật pháp, chẳng có ǵ không
tương ứng. “Như tam
mật tương ứng dữ cảnh trí tương
ứng” (như tam mật tương ứng và cảnh
trí tương ứng): “Cảnh”
là hoàn cảnh bên ngoài, nay chúng ta gọi là hoàn cảnh
vật chất. Nay chúng ta gọi “trí” là hoàn cảnh tinh thần. Tam Mật là công phu
tu hành. “Tam” là ǵ? Chỉ thân,
khẩu, ư, thân phải lễ kính, đối với
hết thảy chúng sanh phải biết lễ kính; khẩu
nghiệp tán thán; ư là trong tâm cung kính, có ḷng thành kính, chân thành
cung kính, biểu hiện ra ngoài là lễ, lễ độ.
Đối với người như thế, mà đối
với sự cũng là như thế, đối với
thiên địa vạn vật cũng là như thế,
đó là ǵ? Đó là Tánh Đức trong tự tánh của
chúng ta. Phật, Bồ Tát làm được, chúng ta
chẳng thể tưởng tượng cảnh giới
của các Ngài, trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói là “tự tánh chẳng
thể nghĩ bàn”. Kiến tánh, cũng là tự tánh
chẳng có lớn hay nhỏ, tự tánh chẳng có
trước hay sau, tự tánh chẳng có xa hay gần, chúng
ta không có cách nào tưởng tượng điều này.
Trong tự tánh thanh tịnh tịch diệt, Phật pháp
thường nói là “cảnh
giới Đại Bát Niết Bàn”, sống động,
hoạt bát, chẳng chết cứng! Tuy trong tự tánh
thứ ǵ cũng chẳng có, nhưng thứ ǵ nó cũng
đều có thể hiện. Do nó có thể hiện, nên
chẳng thể nói nó là Không. Do những h́nh tượng
được hiện ấy là huyễn tướng, nên
quư vị chẳng thể nói nó là Có, v́ sao? Nó là tướng
sanh diệt, tốc độ sanh diệt nhanh chóng,
nhục nhăn của chúng ta nh́n chẳng ra!
Hiện thời, các nhà
Lượng Tử Lực Học bảo chúng ta, những
điều họ nói giống như trong kinh Phật đă
nói. Tốc độ [sanh diệt] nhanh chóng, chúng ta
chẳng có cách nào tưởng tượng được,
quá nhanh! Trong kinh Phật nói là một cái khảy ngón tay,
trong cuộc đối thoại giữa Di Lặc Bồ
Tát và đức Thế Tôn, [Di Lặc Bồ Tát đă nói] trong
một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Niệm ấy
là một niệm sanh diệt, “ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Lấy trăm
ngàn làm đơn vị, một trăm ngàn là mười
vạn, ba mươi hai ức nhân với mười
vạn là ba trăm hai mươi triệu, quư vị
thấy một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi
triệu niệm. Nếu chúng ta khảy nhanh, tôi tin
tưởng có người khảy nhanh hơn tôi, một
giây có thể khảy năm lần. Nếu khảy năm
lần, ba trăm hai mươi triệu nhân với năm,
một giây có bao nhiêu lần? Một ngàn sáu trăm
triệu, làm sao chúng ta tưởng tượng
được? V́ thế, tướng ấy có thật hay
chăng? Chẳng thật. Chúng ta xem những hiện
tượng ấy, các nhà Lượng Tử Lực
Học đă cho chúng ta biết đó là ǵ? Vốn là
những ư niệm tích lũy liên tục sanh ra huyễn
tướng. Huyễn tướng ấy rất nhiều,
mỗi tướng khác nhau, rất nhiều là v́ tần
suất [dao động] của chúng khác nhau. Tần
suất chậm sẽ biến thành chất rắn, chúng ta
gọi các vật ấy là hiện tượng vật
chất. Hiện tượng vật chất hết
sức cứng chắc, giống như kim cương,
đá quư, [chúng do các ư niệm dao động với]
tần suất chậm [biến ra]. [Tần suất] nhanh
hơn một chút, vật chất sẽ khá lỏng lẻo.
Hơi nhanh hơn một chút th́ vẫn là hiện
tượng vật chất, nhưng chẳng cứng
chắc như thế. Nếu nhanh hơn chút nữa,
sẽ biến thành thực vật, biến thành nhục
thể của chúng ta. Nhanh nhất, tức là như sóng
điện từ trong khoa học hiện đại,
đó là tốc độ nhanh chóng. Do tần suất [dao
động] khác nhau [mà có các huyễn tướng khác nhau],
các nhà khoa học hiện thời đă nói như thế.
Chúng ta biết tam mật
tương ứng và cảnh trí tương ứng,
vậy th́ chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác, tự nhiên phải cẩn thận,
thận trọng. Chớ nên dấy lên vọng niệm,
chớ nên nói bừa, chuyện tà ác quyết định
chớ nên làm. Khởi tâm động niệm nhất
định tương ứng với Tánh Đức, v́
sao? Tánh Đức là tận thiện tận mỹ, tổ
tiên Trung Quốc đă nói “bổn
tánh bổn thiện”, đó là tự tánh, là Tánh
Đức. Hễ tương phản th́ chẳng phải
là tự tánh, đó là sai lầm. Hiện thời,
địa cầu trở thành nông nỗi này là do nhân ǵ?
Người sống trên địa cầu này, đại
đa số đă trái nghịch Tánh Đức, tam
nghiệp chẳng tương ứng với cảnh trí,
cho nên mới biến thành tam đồ lục đạo,
biến thành nông nỗi ấy! Khi chẳng sanh biến hóa
th́ như thế nào? Chẳng sanh biến hóa th́ cũng là
tam mật và cảnh trí hoàn toàn tương ứng.
Người Hoa nói “minh
đức, thân dân, chỉ ư chí thiện”, hoàn toàn
tương ứng với Tánh Đức, đó là thế
giới ǵ? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật
Như Lai, là thế giới Cực Lạc được
giới thiệu trong kinh Vô Lượng Thọ, là thế
giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật
được giới thiệu trong kinh Hoa Nghiêm, hoàn toàn
tương ứng [với những thế giới
ấy].
Do vậy, có thể biết: Nay
chúng ta sống trong hoàn cảnh này là hoàn cảnh bất
hảo, chớ nên oán trời, trách người, v́ sao? Tâm hạnh
của chính chúng ta bất thiện đă biến hiện
cảnh giới ấy. Có lẽ có người nói “tâm
hạnh của tôi rất tốt lành, cớ sao phải
ở chung với những người ấy?” Đó là do chúng
ta có chung cộng nghiệp với họ; cũng có nghĩa
là người trên quả địa cầu này, vạn
sự vạn vật đều có duyên với ta. Họ
tạo tác bất thiện, ta tạo tác thiện pháp,
thiện và bất thiện dung hợp, thiện biến
thành bất thiện, mức độ bất thiện
bị giảm nhẹ, ḥa hoăn hơn! Có nghĩa là ǵ?
Người hành thiện giúp kẻ bất thiện tiêu tan
tội nghiệp, chẳng phải là
như vậy hay sao? Có phải là chuyện tốt
đẹp hay không? Là chuyện tốt đẹp. Chúng ta có
bị mắc hại hay không? Chẳng có! Quyết
định chẳng bị hại mảy may nào! Nếu do
tai nạn ngoài ư muốn, chúng ta cũng chết th́ có
bị hại hay không? Chẳng có! Đă chết bèn sanh
về thế giới Cực Lạc,
chết rồi bèn sanh về Tịnh Độ của
chư Phật, hoặc là chết rồi bèn sanh vào thiên
đạo, đó là chuyện tốt, chẳng phải là
chuyện xấu. Kẻ tạo tội nghiệp bất
thiện, cũng chết trong tai nạn ấy, nhưng chết
rồi sẽ sanh vào tam đồ, v́ sao? Ḥng tiêu trừ
tội nghiệp, đó là chuyện tốt, không phải
chuyện xấu. Người hành thiện cũng là
chuyện tốt, đến hưởng phước trên
cơi trời, đến Tịnh Độ của
chư Phật, chẳng có ǵ không phải là chuyện
tốt! Nếu quư vị thật sự giác ngộ, nh́n
thấu suốt, mỗi người trên thế gian này
đều là người tốt, mọi chuyện đều
là chuyện tốt, trong thế gian này, quư vị sẽ tâm
b́nh khí ḥa. Quư vị hiểu rơ rệt, minh bạch, biết
chính ḿnh phải làm cách nào ḥng thành tựu chính ḿnh, giúp
đỡ chúng sanh. Đó là thật sự giác ngộ.
“Mật
Tông dĩ tam mật tương ứng chi chỉ vi
chủ” (Mật Tông coi tông chỉ “tam mật
tương ứng” là chủ yếu),
đó là phương pháp tu hành trong Mật Tông. Trên
thực tế, phương pháp niệm Phật của chúng
ta và phương pháp của họ hết sức
tương ứng, rất gần gũi. Tam Mật là
“miệng niệm chú, ư quán tưởng, tay kết ấn”. Tay
kết ấn thuộc về thân nghiệp, quư vị
thấy thân - khẩu - ư tương ứng. Chúng ta là
đệ tử Phật môn, thông thường hễ trông
thấy người khác bèn chắp tay “A Di Đà Phật”,
xá người khác, đó là tam mật tương ứng.
Chắp tay chính là thủ ấn, là kết ấn. Chắp
tay có nghĩa là ǵ? Mười đầu ngón tay
tượng trưng cái tâm rất tán loạn của chúng
ta, vọng niệm rất nhiều. Chắp tay có ư nghĩa
thâu hồi ư niệm của chúng ta, thâu hồi vọng
niệm lại, biểu thị sự cung kính. Ta nhất
tâm, nhất tâm là cung kính; do vậy, chắp tay biểu
thị cung kính, đó là kết ấn. Trong tâm biểu
lộ thành kính, miệng tán thán, lễ kính và tán thán cũng
là tam mật tương ứng. Khi chúng ta niệm Phật,
miệng niệm “Nam-mô A Di
Đà Phật”, chắp tay là kết ấn, hoặc
cầm xâu chuỗi cũng là kết ấn. Trên tay cầm
xâu chuỗi có nghĩa là ǵ? B́nh thường, xâu chuỗi biểu
thị hai tác dụng:
1) Một tác dụng là nhắc
nhở chính ḿnh niệm Phật, sợ quên mất. Rất
nhiều người niệm Phật, niệm đến
cuối cùng chẳng biết đă quên bẵng lúc nào, tâm
chẳng biết đă chạy đến đâu rồi,
cho nên xâu chuỗi nhắc nhở quư vị.
2) Thứ hai là xâu chuỗi
để đếm số, ta mỗi ngày niệm Phật
bao nhiêu câu, đếm số [để có công khóa nhất
định]!
Có hai tác dụng ấy! Thông
thường, đếm số lúc mới sơ học,
nhiếp tâm [bằng cách] đếm số, c̣n nhắc
nhở là đối với những người tu hành
đă lâu, niệm Phật đă có công phu kha khá, sợ
“thất niệm”. Thất niệm là quên mất, tâm
chạy theo vọng tưởng, quên khuấy Phật hiệu.
V́ thế, [xâu chuỗi] nhằm nhắc nhở quư vị,
có hai loại ư nghĩa ấy.
Trong tâm nghĩ tưởng A Di
Đà Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng
ta: “Ức Phật, niệm
Phật, hiện tiền đương lai, tất
định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm
Phật, hiện tại, tương lai, nhất
định thấy Phật). Ức Phật là nghĩ
tới Phật, trong tâm thường nghĩ tới A Di Đà
Phật. V́ thế, khi đă niệm thuộc kinh Vô
Lượng Thọ sẽ tốt lắm. Nghĩ tới
công đức, đại nguyện, sự tu hành,
đại từ đại bi phổ độ chúng sanh
của A Di Đà Phật, chẳng nghĩ ǵ khác, đó gọi
là Ức Phật. Niệm Phật, tŕ danh hiệu Phật,
v́ sao? A Di Đà Phật dạy chúng ta như vậy.
Nếu quư vị muốn văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, hăy thường thường
chấp tŕ danh hiệu. “Chấp”
(執)
là chấp trước, “tŕ”
(持)
là bảo tŕ (ǵn giữ), chớ nên vứt bỏ. Phật
pháp luôn dạy chúng ta buông xuống, chỉ riêng Phật
hiệu là chẳng thể buông xuống. Buông Phật
hiệu xuống, quư vị chẳng có ǵ để
nương cậy! Thứ ǵ cũng buông xuống, nhưng
chuyên môn chấp trước Phật hiệu. Thứ này
giống như phi thuyền bay trong vũ trụ, câu
Phật hiệu này là tuyến đường bay. Chỉ
cần noi theo Phật hiệu, quư vị chẳng bị
lạc khỏi tuyến đường hành tŕnh, nó sẽ
dẫn quư vị đến thế giới Cực Lạc.
Do một câu Phật hiệu niệm niệm đều
tương ứng với Tây Phương Cực Lạc
thế giới, tâm chúng ta khởi niệm ở nơi
đây, A Di Đà Phật ở bên kia liền nhận
được. Niệm niệm tương ứng,
chẳng lạc lối mảy may, phương pháp này
mầu nhiệm tột bậc! Quư vị đừng
hỏi thế giới Cực Lạc ở nơi đâu,
chỉ cần giữ vững danh hiệu ấy, chắc
chắn sẽ đạt đến. Đánh mất danh
hiệu này, có thể sẽ đi sai chỗ, chẳng
đến được! A Di Đà Phật dạy chúng ta
phương pháp này là có lư, tuyệt đối chớ nên lầm
lỡ, phải biết phương pháp này là trọng
yếu, phương pháp này cũng là một loại
Mật pháp.
“Vị
linh chúng sanh thân khẩu ư tam nghiệp đốn khế
Như Lai tam mật, cố tức thân thành Phật. Cố
Mật Tông diệc xưng Tương Ứng Tông” (V́
khiến cho ba nghiệp thân, khẩu, ư của chúng sanh nhanh
chóng khế hợp tam mật của Như Lai, cho nên thành
Phật ngay trong thân này. Do đó, Mật Tông c̣n gọi là
Tương Ứng Tông). Quư vị xét xem, Tịnh Độ
của chúng ta có phải là Tương Ứng Tông hay không?
Có cùng một ư nghĩa! V́ thế, tu hành phải thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài. Khi tổ sư tiếp
dẫn đại chúng đă có “thù
thắng dị phương tiện” (phương pháp lạ
lùng thù thắng), “dị” (異) là pháp
phương tiện khác biệt, nêu ra như thế nào?
Thiền Tịnh song tu, hoặc Mật Tịnh song tu, nêu ra
các phương pháp ấy. Phải biết: Đó là
phương tiện thiện xảo của tổ sư v́
quư vị quá chấp trước Thiền. Bảo quư
vị buông Thiền xuống để chuyên tu Tịnh
Độ, quư vị chẳng đành ḷng, chẳng muốn,
sẽ nẩy sanh phiền năo. Tổ sư thấy rất
rơ ràng, biết quư vị tu Thiền chẳng thành công, khuyên
quư vị học Tịnh Độ th́ quư vị lại
chẳng chịu, bèn dùng pháp phương tiện, [bảo]
Thiền Tịnh song tu tốt lắm: “Có Thiền, có Tịnh Độ, giống như
cọp đội sừng”! Quư vị vừa nghe nói
như thế bèn thích thú, cũng niệm Phật kèm thêm.
Trên thực tế, nhằm vào ư nghĩa ǵ? Quư vị tu
Thiền chẳng thành công, tu Tịnh bèn thành công, dùng
phương pháp như vậy đó. Chúng ta đă tu
Tịnh Độ, lại muốn tu Thiền th́ trật
mất rồi! Tổ sư chẳng nói lời ấy
với chúng ta, quư vị đi theo con đường này là
chánh xác, đă đi đúng rồi, đừng đi vào ngơ
rẽ! Nh́n từ chỗ này, quư vị nh́n vào kinh văn,
thấy Tịnh và Mật chẳng hai! Mật là Tịnh,
Tịnh là Mật. Hơn nữa, Tịnh và Mật có quan
hệ càng mật thiết hơn, v́ sao? Đều là tu tâm
thanh tịnh. Tịnh Độ tu tâm thanh tịnh, Mật
cũng là tu tâm thanh tịnh, cho nên càng gần gũi;
nhưng Tịnh thuận tiện hơn Mật, Mật
đ̣i hỏi phải có căn cơ kha khá!
Lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ bảo tôi: “Hiện
thời học Mật chẳng có ai thành tựu!” Tôi
đến thăm lăo nhân gia ở Bắc Kinh, có mấy
lần nhắc tới vấn đề này. Trong thời
đại này, từ nay về sau, Thiền và Mật
đều chẳng thể nào thành tựu, thật sự
có thể thành tựu th́ chỉ có tŕ danh niệm Phật!
Trong kinh, đức Phật đă
dạy điều này, chắc chắn chẳng giả,
pháp môn này có thể độ chúng sanh trong một trăm
năm cuối cùng của thời Mạt Pháp. Trong một
trăm năm cuối cùng ấy, kinh giáo nhà Phật hoàn toàn
biến mất trên thế gian này, chẳng c̣n nữa. Chúng
sanh chẳng có phước, kinh giáo hoàn toàn mất
đi, nhưng hăy c̣n có một câu hồng danh sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật” trên
thế gian. Trong một trăm năm cuối cùng, có
người niệm câu Phật hiệu này th́ cũng có
thể văng sanh. V́ vậy, trong thời kỳ Mạt Pháp,
Tịnh Độ thành tựu, đức Phật đă
tuyên thuyết điều này.
“Thử
tứ cú dữ tiền ‘thăng Quán Đảnh giai’
nhị cú, thâm biểu Mật Tịnh bất nhị chi
chỉ” (bốn câu này và hai câu “lên địa vị Quán Đảnh”
trong phần trước biểu thị sâu xa ư chỉ
“Mật - Tịnh bất nhị”), xác thực là chúng ta có
thể hiểu được. “Biểu
hội trung chư đại sĩ, vị hoằng Mật
Thừa, năi giáo đạo chư Bồ Tát, thành vi Kim Cang A
Xà Lê, cố bổn thân
hằng thường tu tập vô lượng vô biên
tương ứng chi hạnh” (biểu thị các
vị đại sĩ trong hội v́ hoằng dương
Mật Thừa, để dạy các vị Bồ Tát
trở thành Kim Cang A Xà Lê. Do vậy, bản thân thường
luôn tu tập vô lượng vô biên hạnh tương
ứng). Nay chúng ta hiểu “thường
luôn tu tập vô lượng vô biên hạnh tương
ứng” chính là một câu danh hiệu này, trong tâm thật
sự có A Di Đà Phật. Phải biến A Di Đà
Phật thành bậc ngưỡng mộ nhất, ưa thích
nhất, tôn kính nhất, niệm niệm chẳng quên trong tâm
chúng ta. Trong tâm quư vị thật sự có Phật, miệng
chẳng ĺa danh hiệu, thân chẳng ĺa lễ Phật. B́nh
thường, đối với người, đối
với sự, đối với vật, hết thảy
cung kính, thân nghiệp tương ứng. Trong khóa lễ
sáng tối, có thể lễ bái một trăm lạy,
đó là người b́nh thường, khóa sáng lạy Phật
một trăm lạy, khóa tối lạy Phật một
trăm lạy, rất hữu ích khiến cho thân thể
mạnh khỏe. Lạy Phật là vận động
hết sức tốt. Lạy Phật đừng nên dùng
đệm lạy, hăy lễ trực tiếp trên sàn th́ quư
vị mới có thể thâu được hiệu quả
từ sự vận động. Nếu có đệm
lạy rất cao, sẽ chẳng thâu được
hiệu quả này. Thân tâm khỏe mạnh, tam mật
tương ứng.
Trong câu tiếp theo, trong quá
khứ, tôi đọc câu này liền với câu trên: “Thường tập tương
ứng vô biên chư hạnh, thành thục Bồ Tát vô biên
thiện căn” (thường tu tập vô biên các
hạnh tương ứng, thành thục vô biên căn lành
của Bồ Tát). Trong Khoa Phán, tôi phân chia theo cách như
vậy, có hơi khác đôi chút so với cụ Niệm
Tổ. Câu kết thúc là “vô biên
chư Phật hàm cộng hộ niệm” (vô biên chư
Phật đều cùng hộ niệm). Đây là một
đoạn nhỏ cuối cùng trong phân đoạn này, [nói
về] sự hộ niệm của Phật, [thường
gọi tắt là] “Phật
hộ”. Đối với thiện căn, thành thục
vô biên thiện căn của Bồ Tát. “Thiện căn giả, thân, khẩu, ư tam nghiệp chi thiện, cố bất khả
bạt, vị chi Căn”
(Thiện căn là điều lành nơi ba nghiệp thân,
khẩu, ư, vững chắc, chẳng thể nhổ
trừ, nên gọi là Căn), đây là ư nghĩa thứ
nhất của chữ Căn. Trong tam nghiệp
thiện, nói theo mặt Sự, đối với những
điều thiện nơi thân trong Thập Thiện
Nghiệp Đạo, quư vị ǵn giữ hết sức
kiên định, làm được một trăm phần
trăm: Thân chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp,
chẳng tà dâm, đó là ba điều thiện nơi thân.
Miệng có bốn điều thiện, chẳng vọng
ngữ, không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác
khẩu. Ư cũng có ba điều thiện, tức là
chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Thực hiện
Thập Thiện một trăm phần trăm là ai?
Thưa cùng chư vị, Pháp Thân Bồ Tát thật sự
làm được. Quan sát cẩn thận, từ khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, từ
sự đăi người tiếp vật trong cuộc
sống hằng ngày của người ấy, quư vị
hăy quan sát kỹ lưỡng, từ Thập Thiện
mở rộng thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh,
thiện hạnh đấy! Đó chính là “thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn”
như trong phần trước đă nói. Con số “tám vạn bốn ngàn”
được nói trong kinh chẳng phải là giả, quư
vị hăy phân tích từng chuyện, đúng là tám vạn
bốn ngàn. Trên thực tế, tám vạn bốn ngàn
lại mở rộng ra sẽ là vô lượng vô biên.
Tiếp đó, c̣n có một ư
nghĩa nữa: “Hựu
thiện năng sanh diệu quả, xuất sanh dư
thiện, cố vị chi Căn” (Lại nữa,
thiện có thể sanh ra thiện quả, sanh ra các
điều lành khác, nên gọi là Căn). Dùng điều này
để tỷ dụ, giống như cây cối, hoa,
cỏ có rễ. Từ thiện căn, từ Căn ấy
có thể sanh ra vô lượng vô biên thiện pháp. Hết
thảy các thiện pháp thế gian và xuất thế gian
đều chẳng ĺa mười thiện nghiệp
ấy; do vậy, Thập Thiện Nghiệp là cội
rễ của tất cả hết thảy thiện pháp.
Tương phản của Thập Thiện là Thập Ác,
đó là mười thứ bất thiện, cũng là nói
tất cả hết thảy bất thiện, vô lượng
vô biên bất thiện nghiệp của chúng sanh trong tam
giới lục đạo đều sanh từ Thập Ác.
Chúng ta biết thiện hạnh và ác nghiệp rốt cuộc
là chuyện như thế nào, quư vị thấy rơ ràng, thấy
minh bạch. Chúng ta mong mỏi làm thiện nhân, hay là mong làm
ác nhân, bất thiện? Tư tưởng và ngôn hạnh
tương ứng với Thập Ác, toàn bộ đều
xấu xa. Là kẻ tương ứng với Thập Ác,
chắc chắn thân thể chẳng khỏe mạnh. Thân
thể có bệnh, chắc chắn hoàn cảnh cư
trụ có rất nhiều tai nạn. Tai nạn có hữu
h́nh và vô h́nh, vô h́nh chỉ điều ǵ? Nhục nhăn
chẳng trông thấy oán thân trái chủ, nhưng họ luôn
quanh quẩn bên quư vị, nhiễu loạn quư vị. V́ sao?
Do nghiệp lực bất thiện cảm vời. Nếu
quư vị thật sự tu Thập Thiện, thân, ngữ, ư
nghiệp tương ứng với Thập Thiện
Nghiệp, giữ vững chẳng bỏ, quư vị
chẳng nh́n thấy những thiện thần ở quanh
quư vị ủng hộ, cung kính quư vị. Quư vị là
người tốt, họ đến giúp quư vị thành
tựu thiện hạnh. [Những chuyện này] đều
chẳng tách rời nghiệp cảm. V́ thế, thiện
nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo.
Đệ Tử Quy hướng
dẫn trẻ nhỏ, thực hiện Thập Thiện
từ đâu? Thực hiện từ Đệ Tử Quy,
thực hiện từ Cảm Ứng Thiên, sau đấy,
Thập Thiện mới có Căn. Chẳng có Cảm
Ứng Thiên, chẳng có Đệ Tử Quy th́ Thập
Thiện chẳng có Căn. Thời cổ, bất luận
xuất gia hay tại gia học Phật, v́ sao có thành
tựu tốt đẹp như thế? Chẳng có ǵ khác!
Từ bé đă được vun bồi căn cội
tốt đẹp. Cha mẹ thật sự yêu thương
con cái, vun bồi căn cội tốt đẹp từ bé,
đó gọi là “chân ái hộ”
(thật sự yêu thương). Gốc sâu rễ vững,
tăng trưởng, bất luận trong cảnh duyên nào,
đếu chẳng bị biến đổi. Do vậy, có
thể nào chẳng thể cảm ân cha mẹ? Cha mẹ
sanh ra chúng ta, nuôi nấng, giáo dục chúng ta, ân đức
ấy quá lớn. Cha mẹ dưỡng thành cội rễ
ấy, Phật, Bồ Tát tiếp tục dạy bảo quư
vị, trong một đời này, quư vị có thể thành
Phật, thành Bồ Tát. Phật, Bồ Tát là thầy
của chúng ta, tức là A Xà Lê của chúng ta. A Xà Lê là Giáo Thọ,
hoặc Quỹ Phạm Sư, là vị thầy giúp chúng ta
thành tựu. Người sống trong thế gian phải
cảm ân, cội rễ của cảm ân là cha mẹ và
sư trưởng, đấy là cội nguồn! Nếu
chẳng có hai loại cội rễ ấy, bất hiếu
cha mẹ, bất kính sư trưởng th́ trong thế gian
này, bố thí, thi ân đối với bất luận
người nào hay vật nào toàn là giả dối. V́ sao? Ân
huệ ấy chẳng có Căn; do vậy, ân huệ ấy
chẳng phải là sống, mà là chết, chẳng có Căn
mà! Chớ nên chẳng biết đạo lư này!
Chúng ta xem tiếp sự hộ
niệm trong phần sau, “vô
lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm”
(vô lượng chư Phật đều cùng hộ
niệm), v́ sao? V́ quư vị tương ứng, nên khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác [của quư
vị] chư Phật, Bồ Tát hoàn toàn hay biết. Quư
vị là thiện nhân, thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nay quư vị nhất tâm cầu Vô Thượng Bồ
Đề, hiếm có, khó được, chư Phật,
Bồ Tát biết khởi tâm động niệm, biết
sự phát tâm của quư vị, tự nhiên tương
ứng đến hộ tŕ quư vị, hết thảy
thiện thần hộ niệm quư vị. V́ sao? Thiện
cảm ứng thiện, ác cảm ứng ác. Nếu quư
vị làm chuyện ác th́ có cảm ứng là yêu ma quỷ
quái đều đến hộ tŕ, La Sát, ác thần
đến hộ tŕ quư vị, giúp quư vị làm ác, đó là
cảm ứng. “Hộ niệm
giả, bảo hộ ức niệm dă. Hội Sớ
viết: Hộ vị phú hộ, niệm vị kư niệm”
(Hộ niệm là che chở, nghĩ nhớ. Hội Sớ
giảng: “Hộ là che chở, bảo vệ. Niệm là ghi
nhớ”). “Phú hộ” (覆護) là bảo
vệ, hộ tŕ, là điều quư vị đạt
được. Phật, Bồ Tát bảo vệ, hộ tŕ
quư vị. Phật, Bồ Tát thường thường
nghĩ nhớ quư vị. Bất luận trong hoàn cảnh
nào, Phật, Bồ Tát chẳng hề không chiếu cố.
Nếu ư niệm của chúng ta sai trái, niệm niệm
đều là tham, sân, si, niệm niệm đều là
ngũ dục, lục trần, tôi vừa mới nói rồi
đó, cũng có kẻ hộ niệm quư vị: Ma
Vương Ba Tuần, La Sát, yêu ma quỷ quái, oán thân trái
chủ đều hộ niệm quư vị, trợ giúp quư
vị tạo ác. Nói cách khác, họ giúp đỡ, dụ
dỗ quư vị đi vào đâu? Vào tam đồ,
đến các nơi khác nhau, như địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, đến những nơi đó.
Người niệm Phật, Phật hộ niệm quư
vị, quư vị sanh về thế giới Cực Lạc.
Thiện nhân chẳng niệm Phật, trong tâm muốn sanh
lên trời, hoặc muốn đời sau được
hưởng phước báo nhân thiên, Phật, Bồ Tát,
thiện thần đều gia hộ, hộ niệm quư
vị, tâm nguyện nhất định xứng ư đúng lư,
nhất định như nguyện. Ở chỗ này, chúng
ta thấy kinh giáo nói: Đối hết thảy chúng sanh,
chư Phật, Bồ Tát “tùy
tâm ứng lượng”, [tức là] thuận theo
nguyện vọng của quư vị, mà Phật, Bồ Tát
thỏa măn nguyện vọng. Đó là nói rơ sau khi
tương ứng, nhất định được
hộ niệm!
“Tịnh
Ảnh Sớ viết: Hộ sử ly ác, niệm linh
tăng thiện” (Tịnh Ảnh Sớ giảng:
“Hộ khiến ĺa ác, Niệm khiến tăng thiện”).
Ngài đă tách hộ niệm ra để giảng, Hộ (護) là ǵ? Bảo
vệ quư vị, giúp quư vị ĺa hết thảy ác;
Niệm (念)
là niệm niệm giúp cho quư vị tăng thiện. Cách
giảng này cũng hay lắm! “Cố
tri thử lưỡng cú tổng tán hội trung chư
đại sĩ” (nên biết hai câu này khen ngợi chung
các vị đại sĩ trong hội), tán thán chung
những vị Bồ Tát tham dự pháp hội, Đại
Sĩ là danh xưng để gọi Bồ Tát, “tuân tu Phổ Hiền chi
đức, sử dư Bồ Tát vô biên thiện căn giai
đắc thành thục, cố vô lượng chư
Phật tất giai hộ niệm” (tuân tu đức
của Phổ Hiền, khiến cho vô biên thiện căn
của các vị Bồ Tát khác được chín muồi.
Do vậy, vô lượng chư Phật thảy đều
hộ niệm). Thuở ấy, đức Thế Tôn
mở pháp hội này tại Linh Sơn, v́ chúng ta tuyên
giảng kinh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát tham dự pháp
hội lần ấy rất đông. Trong phần
trước, kinh văn đă giới thiệu mười
sáu vị Chánh Sĩ, trong số ấy, có nhiều vị
Bồ Tát từ các phương khác đến, chẳng
phải là người trong thế giới Sa Bà. Do vậy,
ta có thể biết sự thù thắng của pháp hội.
Nhục nhăn của lũ phàm phu chúng ta chẳng trông
thấy, nhưng từ A La Hán trở lên đều có
thể thấy. Thậm chí Tu Đà Hoàn đă khai thiên nhăn
đều có thể trông thấy. Những vị Bồ Tát
ấy bất luận là trong cơi này hay nơi phương
khác, “cơi này” là nói đến thế giới Sa Bà, khu vực
giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là mười ức
hệ Ngân Hà, chúng sanh ở trong ấy có bao nhiêu? “Dư Bồ Tát” là nói tới
các vị Bồ Tát trong mười phương thế
giới có duyên với Tịnh Tông, có duyên với A Di Đà
Phật, những vị như vậy rất đông! Trong
hội này, những vị đại Bồ Tát tu
đức của Phổ Hiền đại sĩ có
thể ảnh hưởng những vị Bồ Tát có duyên
với Tịnh Tông trong mười phương thế
giới, giúp họ thành thục thiện căn, nên mới
có cách nói này: “Vô lượng
chư Phật thảy đều hộ niệm”,
tức là như kinh văn đă chép: “Vô lượng chư Phật hàm cộng hộ
niệm”. Sau khi chúng ta đọc xong, sẽ có thể
cảm nhận được. Nếu chúng ta thật
sự tu Tịnh Độ, tâm chân thành
tu Tịnh Độ, nhất tâm nhất ư muốn thấy
A Di Đà Phật, ư niệm ấy sẽ cảm vô
lượng chư Phật đều cùng hộ niệm.
Đức Phật nói kinh này chẳng hề nói dối, câu
nào cũng chân thật. Đức của Phổ Hiền
được giới thiệu đến đây.
Phần kinh
văn tiếp theo nói
đến trí đức của Văn Thù Bồ Tát,
những phần trước đều là “tuân tu Phổ Hiền chi đức”, Phổ
Hiền là hạnh đức, Văn Thù là trí đức.
Hạnh cũng phải có trí huệ. Chẳng có trí huệ,
tu hành sẽ nẩy sanh vấn đề. Trong Phật pháp,
các vị tổ sư đại đức trong quá khứ
thường dạy: “Từ bi
vi bổn, phương tiện vi môn” (từ bi làm
gốc, phương tiện làm cửa), đó là Phật
pháp, nhưng các Ngài c̣n nói: “Từ
bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ
lưu” (từ bi lắm họa hại, phương
tiện thành hạ lưu), đó là ǵ? Trong từ bi và
phương tiện nẩy sanh tác dụng phụ, v́ sao
nẩy sanh tác dụng phụ? Xử sự bằng cảm
t́nh, vấn đề bèn nẩy sanh. Do vậy, cần
phải dùng trí huệ, trí huệ của Văn Thù sẽ
không xuất hiện vấn đề. Đều nhằm
dạy chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày phải dùng
lư trí, chớ nên dùng cảm t́nh. Dùng cảm t́nh sẽ
thường là thiên kiến, dùng trí huệ sẽ chẳng
có thiên kiến. Do vậy, đă có hạnh Phổ Hiền,
vẫn phải có trí đức của Văn Thù, [hay
gọi tắt là] Văn Thù trí. Chúng ta đọc kinh
văn:
(Kinh)
Chư Phật sát trung, giai năng thị hiện.
(經) 諸 佛 剎 中。皆 能 示 現。
(Chánh kinh: Trong các cơi Phật,
đều có thể thị hiện).
Đây là tướng biểu
thị của Văn Thù trí đức. Trí huệ là ǵ? Trí
huệ là thật sự có thể buông xuống, có thể
thị hiện trong các cơi Phật.
(Kinh) Thí thiện huyễn sư,
hiện chúng dị tướng.
(經) 譬
善 幻 師。現 眾 異 相。
(Chánh kinh: Ví như
người giỏi huyễn thuật, có thể hiện
các tướng lạ).
Đây là nêu tỷ dụ, “thiện huyễn sư” là nhà
ảo thuật, tuy chẳng phải là thật, nhưng
kẻ ấy có thể hiện ra rất nhiều h́nh
tượng khác nhau!
(Kinh) Ư bỉ tướng
trung, thật vô khả đắc.
(經) 於
彼 相中。實 無 可 得。
(Chánh kinh: Trong các tướng
ấy, thật sự chẳng thể được).
Các tướng trong tỷ
dụ ấy là giả, chẳng thật. Đó là trí
huệ, hiển lộ trí huệ.
(Kinh) Thử chư Bồ Tát,
diệc phục như thị.
(經) 此
諸 菩 薩。亦 復 如 是。
(Chánh kinh: Các vị Bồ Tát
ấy cũng giống như thế).
Do vậy, các Bồ Tát thị
hiện trong thế gian này, giáo hóa hết thảy chúng sanh,
quyết định chẳng có chấp trước, phân
biệt, chẳng khởi tâm động niệm, nên
hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Kinh
Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng
sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm
chúng sanh, mà ứng hiện phù hợp với khả năng
nhận biết của họ). Đây cũng là nói rơ:
Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng liên
can bất cứ ai. V́ thế, toàn là “tự làm, tự
chịu”, phải thừa nhận điều này, chẳng
liên can bất cứ ai! Có thể tham cứu thấu
suốt đạo lư này, trong bất luận hoàn cảnh
nào, quư vị cũng có thể tâm b́nh khí ḥa, chẳng oán
trời, trách người. Kẻ tâm b́nh khí ḥa có thể
thấy rất rơ ràng. Đó là trí huệ của Văn Thù.
(Kinh) Thông chư pháp tánh,
đạt chúng sanh tướng, cúng dường chư
Phật, khai đạo quần sanh, hóa hiện kỳ thân,
do như điển quang. Liệt ma kiến vơng, giải
chư triền phược. Viễn siêu Thanh Văn, Bích Chi
Phật địa, nhập Không, Vô Tướng, Vô
Nguyện pháp môn, thiện lập phương tiện,
hiển thị tam thừa.
(經) 通
諸 法 性。達 眾 生 相。供
養 諸 佛。開 導 群 生。化
現 其 身。猶 如 電 光。裂
魔 見 網。解 諸 纏 縛。遠
超 聲 聞 辟 支 佛 地。入 空
無 相 無 願 法 門。善 立 方
便。顯 示 三 乘。
(Chánh kinh: Thông hiểu các pháp
tánh, thấu hiểu tướng chúng sanh, cúng dường
chư Phật, chỉ dạy quần sanh, hóa hiện thân
ḿnh giống như tia chớp, xé lưới ma kiến,
tháo các triền phược. Vượt xa địa
vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhập pháp môn Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện, khéo lập phương tiện
hiển thị tam thừa).
Đoạn này toàn là nói về
trí đức của Văn Thù Bồ Tát, chúng ta hăy
đọc lời chú giải: “Thượng
nhất đoạn văn”, [nghĩa là] đoạn
văn vừa đọc trên đây, “tục diễn” (tiếp tục diễn nói),
Tục (續)
là tiếp theo, “Chuyển Pháp
Luân chi đệ thất
tướng” (tướng thứ bảy là Chuyển
Pháp Luân), đă nói về hạnh Phổ Hiền, lại c̣n
có Văn Thù Bồ Tát cần phải nói tiếp, nên
tiếp tục diễn nói về tướng Chuyển Pháp
Luân thứ bảy. “Bổn
phẩm danh vi Đức Tuân Phổ Hiền, chánh biểu
kinh trung Phổ Hiền vị liệt Thượng Thủ
chi nghĩa” (phẩm này có tên là Đức Tuân Phổ
Hiền, chính là để biểu thị ư nghĩa: Trong
kinh này, ngài Phổ Hiền được xếp vào
địa vị Thượng Thủ). Vị
Thượng Thủ thứ nhất là Phổ Hiền
Bồ Tát, giống như kinh Hoa Nghiêm. “Cái bổn kinh vi Viên Giáo, tùng quả khởi nhân,
cố tiên Phổ Hiền, nhi thứ Văn Thù. Phổ
Hiền biểu Hạnh, Văn Thù biểu Trí. Vô Trí tắc
bất năng khởi Hạnh, cố phục
đương tiêu hiển Văn Thù” (đó là v́ kinh này
là Viên Giáo, từ nhân dấy lên quả, cho nên trước
là Phổ Hiền, kế đến là Văn Thù. Phổ
Hiền biểu thị Hạnh, Văn Thù biểu thị
Trí. Không có Trí sẽ chẳng thể khởi Hạnh, do
vậy, phải nêu rơ Văn Thù). Đây là nói rơ duyên do
của đoạn kinh này, v́ sao ở đây phải nói
đoạn kinh văn này, nêu ra nguyên nhân. Trong phần
trước, đă nói về hạnh Phổ Hiền. Kinh
này là Viên Giáo, y chiếu giáo nghĩa của kinh này, viên
cực, đốn cực, v́ kinh này dạy chúng ta thành
tựu trong một đời, nên được gọi là
Đốn Giáo, chẳng phải là bảo chúng ta phải tu
vài đời, chẳng phải vậy, mà là thành tựu
ngay trong một đời! Trong một đời này, ngay
khi c̣n đang sống sờ sờ, có nghĩa là ǵ? Người
niệm Phật chúng ta văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chư vị nhất định
phải biết điều này, là ra đi trong khi c̣n
sống, không phải là chết rồi mới đi. Lúc lâm
chung, tôi không nói “sắp chết” mà nói “lúc sắp ra đi”,
quư vị thấy A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn, đầu óc quư vị rất sáng suốt, tỉnh
táo, chẳng thấy sai lầm. A Di Đà Phật, Quán Âm,
Thế Chí đến tiếp dẫn ta, quư vị nói rơ
với người chung quanh: “Phật đến đón
tiếp tôi, tôi theo Phật ra đi”, chẳng phải là ra
đi trong khi c̣n sống ư? Sau khi ra đi, chẳng
cần đến xác thân nữa. Chư vị phải
biết điều này: “Ra đi trong khi c̣n sống”, cho nên
là [thành tựu] trong một đời này.
Bản thân quư vị quyết
định chẳng có cảm giác quư vị đă chết
rồi sanh về bên kia, chẳng có chuyện ấy! Linh
tánh của quư vị rời khỏi cơ thể này, theo
Phật cùng đến thế giới Cực Lạc. Không
phải là chết rồi mới đi, đă chết th́ làm
sao có thể đi được? Chết rồi mới
đi sẽ chẳng dễ dàng, như vậy th́ cũng
phải rất có thiện căn, đó là ǵ? Thân Trung
Ấm đắc độ, có những trường
hợp như vậy, nhưng rất ít! Trong hiện
thời, những năm qua, chúng ta đề xướng
nghi thức Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự do Trung Phong
thiền sư biên soạn, rất có hiệu quả,
nhằm độ Trung Ấm, âm dương đều
lợi lạc. Những chúng sanh trong cơi U Minh có văng sanh [Cực
Lạc] hay không? Có, nhưng chẳng nhiều lắm,
đại đa số văng sanh thiên đạo, do nguyên nhân
nào? Kẻ hiểu rơ thế giới Cực Lạc quá ít. Do
vậy, những đồng tu thường nghe kinh,
biết nhiều về thế giới Cực Lạc, chúng
ta nghe kinh trong pháp hội này, tại đạo tràng này,
không chỉ loài người chúng ta đang nghe, chúng ta
chẳng thấy chư linh trong cơi u minh, số
lượng đông hơn chúng ta chẳng biết bao nhiêu
lần. Chư linh nghe kinh tốt lắm, trong Tam Thời
Hệ Niệm Pháp Sự, do họ thường đến
nghe kinh, sẽ thật sự văng sanh. Kẻ chẳng
thường nghe kinh có ít cơ hội hơn, chúng ta có
thể lư giải, suy nghĩ điều này.
Kinh giáo Tịnh Độ
chẳng thể không giảng, bản thân chúng ta đọc
kinh liễu giải, chính ḿnh đắc độ. Chính ḿnh
liễu giải mà nếu không giúp đỡ người
khác, chẳng giới thiệu kinh này cho người khác,
tức là có lỗi với chính ḿnh, có lỗi với
Phật, Bồ Tát, có lỗi với A Di Đà Phật. A Di
Đà Phật muốn phổ độ chúng sanh, cớ sao
quư vị chỉ độ chính ḿnh, chẳng đoái hoài
kẻ khác? Chẳng tương ứng với bổn
nguyện của A Di Đà Phật. Chúng ta muốn sanh
về thế giới Cực Lạc, hy vọng mang theo
một số chúng sanh cùng đi, A Di Đà Phật sẽ
hoan hỷ. V́ thế, toàn tâm toàn lực khuyên dạy hết
thảy chúng sanh nhận thức Tịnh Độ, phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Nói theo Tịnh
nghiệp tam phước, chính ḿnh đă thành tựu,
chớ nên quên giúp đỡ người khác, đấy
chính là câu cuối cùng, “khuyến
tấn hành giả”. Đối với người tu
hành, chúng ta phải khuyên họ phát nguyện cầu sanh
thế giới Cực Lạc, thành tựu viên măn trong
một đời, đấy mới thật sự là
đồng tâm, đồng đức, đồng
nguyện, đồng hạnh với A Di Đà Phật. V́
thế, chẳng thể không biết Văn Thù trí. Ở đây có hai câu nói rất hay, “vô trí tắc bất năng khởi hạnh, cố
đương tiêu hiển Văn Thù” (chẳng có Trí
sẽ chẳng thể khởi Hạnh, cho nên phải nêu
bày, nói rơ Văn Thù). Bởi lẽ, hạnh là trọng
yếu, nhưng trí cũng chẳng thể thiếu.
“Như
Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết:
Bất độ Văn Thù trí hải, nan nhập Phổ
Hiền hạnh môn. Dĩ bất năng liễu tri tự
tâm, nhất niệm đốn viên, b́nh đẳng chánh
tánh, phàm thánh cộng hữu, nhất tế vô sai. Dĩ
bất liễu cố, sở hữu nguyện hạnh
tất bất cụ túc” (như sách Vô Lượng
Thọ Kinh Khởi Tín Luận đă nói: “Chẳng
vượt biển trí Văn Thù, khó nhập Phổ
Hiền hạnh môn. Do chẳng thể
hiểu rơ tự tâm, nhất niệm đốn viên, chánh
tánh b́nh đẳng, phàm và thánh đều cùng có, chẳng
sai biệt mảy may nào. Do chẳng hiểu rơ nên tất
cả hạnh nguyện thảy đều chẳng
trọn đủ”). Đó là ǵ? Trí huệ trọng yếu.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh
thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng Bát Nhă
hai mươi hai năm. Chư vị nghĩ xem,
[đức Phật] suốt đời giảng kinh
bốn mươi chín năm, giảng Bát Nhă hai mươi
hai năm, gần như là một nửa thời gian,
đó là ǵ? Coi trọng trí huệ. Bát Nhă là trí huệ Văn
Thù. Luận định thông thường, trong sự giáo
học suốt một đời, môn học ấy tốn
thời gian dài như thế, nên pháp môn chủ tu trong
cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật là Bát Nhă. A Hàm là
Tiểu Thừa, là cơ sở. Trong A Hàm giảng
“đoạn ác, tu thiện” đều là nói theo Sự, quá
nửa quả báo là phước báo nhân thiên, nên rất
nhiều người thích học, họ chẳng tách
rời phước báo nhân thiên, họ mong muốn thứ
ấy. Phương Đẳng là dự bị, Bát Nhă là
chánh tu, Pháp Hoa nhằm giúp quư vị tăng tấn. Từ
chỗ này chúng ta liễu giải, chủ tu trong Phật
pháp là trí huệ, làm sao có thể là mê tín cho được?
Phật pháp và mê tín hoàn toàn tương phản! Hai
mươi hai năm dạy trí huệ, lẽ nào dạy
kẻ khác hồ đồ? Đâu có lẽ nào như
thế! Nói Phật giáo là mê tín là do nguyên nhân nào? Do chẳng
nhận thức Phật giáo, hiểu lầm mất
rồi, chê Phật giáo là mê tín, ngỡ Phật giáo là tôn
giáo. Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là sự giáo dục
của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mấy câu
này có ư nghĩa rất sâu, “bất
độ Văn Thù trí hải, “độ” (度) là vượt qua, cũng có
nghĩa là nói: Quư vị chẳng thâm nhập trí huệ
của Văn Thù Bồ Tát, khó thể nhập hạnh môn
của Phổ Hiền. Phổ Hiền hạnh nương
vào Văn Thù trí. Chẳng có Văn Thù trí, quư vị sẽ
không thể hành Phổ Hiền hạnh được!
Trong phần trước, đă nói cương lănh của
Phổ Hiền hạnh là mười đại nguyện
vương, [chẳng có Văn Thù trí] sẽ chẳng
thể thực hiện mười đại nguyện
vương. Mười nguyện ấy, mỗi nguyện
sau đều sâu hơn nguyện trước, càng về
sau càng khó. Bắt đầu từ đâu? Từ “lễ kính chư Phật”,
chúng ta có tâm lễ kính hay không? Nếu có Văn Thù trí, tâm
ấy sẽ phát khởi. V́ sao có thể phát khởi? Quư
vị liễu tri tự tâm. Văn Thù trí chẳng có ǵ khác, chính là quư vị nhận biết chính ḿnh.
Người Hoa thường nói: “Nhân
yếu hữu tự tri chi minh” (con người phải
tự biết ḿnh), quư vị phải nhận biết chính
ḿnh. Chính ḿnh là ǵ? Trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật thường nói: “Bổn lai thị Phật” (vốn sẵn là
Phật). Mỗi chúng sanh vốn là Phật, đó là Văn
Thù trí, chân thật trí huệ, tâm cung kính mới có thể
sanh khởi. Chúng ta học Phật, rất cung kính Phật,
hết thảy chúng sanh đều là Phật, phải có tâm cung kính đối với họ giống như
cung kính Phật, đối với người, đối
với sự, đối với vật, đối
với thiên địa vạn vật, thật sự sanh
khởi tâm cung kính. Đối với người phải
lễ kính, lễ tiết hiện thời là cúi đầu
lễ, gật đầu không được, thiếu cung
kính! Đúng quy củ đứng đó, gập ḿnh chín
mươi độ cúi đầu lễ, ắt phải
như vậy. Vào thời cổ, hành lễ là đảnh lễ
tam bái, đó là cổ lễ, nay chúng ta đối
trước tượng Phật vẫn đảnh lễ tam bái, chẳng quên cổ
lễ. Phật là cổ nhân, chúng ta vẫn dùng phương
cách của cổ nhân để hành lễ đối
với Ngài.
Đối với con
người hiện đại, phải hiện
đại hóa; nếu chẳng hiện đại hóa,
rất nhiều người hiện thời chẳng
thể tiếp nhận. Quư vị nói xem có nhiều kẻ
học Phật, bảo kẻ ấy hăy học Phật,
gặp mặt pháp sư phải lạy, [kẻ ấy giăy
nảy]: “Thôi đi, chẳng học!” Phải thông quyền
đạt biến, chẳng thể cố chấp giữ
quy củ đă thành nề nếp, con người hiện
thời có lễ tiết hiện thời, vậy th́ sao?
Thấy tượng Phật bèn khom ḿnh cúi đầu ba
lượt, đó là lễ kính nhất. Như thế th́
họ sẽ đến [với Phật] rất dễ
dàng, sẽ có thể tiếp dẫn rất nhiều
người. Tới khi nào chính kẻ ấy bái lạy,
đó là chuyện của kẻ ấy, chẳng phải là
chuyện của chúng ta. Đó là đúng! Quư vị đă
học thông suốt Phật pháp, học sống
động, vận dụng sống động.
Đặc biệt là đối với kẻ sơ
học. Nếu quư vị dẫn mấy người sơ
học đến nơi đây, họ thấy phải ḅ
toài ra đất khấu đầu, họ sẽ cảm
thấy khó chịu, lần sau chẳng đến nữa,
quư vị đă dọa họ chạy mất rồi!
Họ sẽ nói Phật giáo là mê tín, phong kiến, buộc con
người quay lại thời đại cổ lỗ,
làm sao họ có thể chịu được? Do vậy,
chúng ta nhất định phải biết, Phật giáo
hiện thời phải dùng lễ tiết hiện thời,
Phật giáo tại ngoại quốc bèn dùng lễ tiết
ngoại quốc, họ đều vui vẻ. Thông quyền
đạt biến, chớ nên không biết điều này.
Do vậy, liễu tri tự tâm,
tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Nhất niệm
đốn viên, nhất niệm là vô niệm, hữu
niệm là nhị niệm. Nhất niệm là b́nh đẳng,
nhị niệm bèn dấy động sóng gió. “Nhất niệm đốn viên”,
“viên” là viên măn, “đốn” là nhanh chóng,
đúng vậy đấy, viên măn! “B́nh đẳng chánh tánh”: Mảy may sai biệt
cũng chẳng có, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới đều có cùng một pháp tánh, cũng là nói
chúng có cùng một tự tánh. “Phàm
thánh cộng hữu, nhất
tế vô sai” (phàm thánh đều cùng có, cùng là một tánh
chẳng sai khác), “nhất
tế” là nhất tánh, nhất tâm, [“nhất tế vô sai”] là chẳng sai biệt
mảy may nào. Không chỉ là phàm lẫn thánh đều cùng
có, mà y báo và chánh báo đều cùng có. Kinh Hoa Nghiêm diễn
tả “t́nh và vô t́nh cùng chung có” bằng câu: “T́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí”, “đồng” là b́nh
đẳng, “viên” là viên măn, “chủng trí” là Nhất
Thiết Chủng Trí, đó là sự chứng đắc
nơi quả địa Như Lai. Quư vị thấy vô t́nh
cũng đều cùng viên măn Chủng Trí.
Thuở chúng tôi c̣n trẻ, khi
ấy tôi mới ngoài bốn mươi tuổi, dạy
học tại Phật Quang Sơn. Lúc đó, tại
Phật Quang Sơn có ba vị thầy xuất gia là pháp
sư Tinh Vân, pháp sư Hội Tánh và tôi, ba người
xuất gia, c̣n có hai vị tại gia là cư sĩ
Phương Luân và cư sĩ Đường Nhất Huyền,
họ là đại cư sĩ. Bản lănh Phật học
của họ đều cao hơn chúng tôi, lớn tuổi
hơn, thời gian học Phật đều lâu hơn
chúng tôi. Chúng tôi đă nhiều lần cùng nhau thảo
luận vấn đề này, nhưng chẳng có kết
luận, câu “t́nh dữ vô t́nh
đồng viên chủng trí” phải giảng như
thế nào? Nếu quư vị nói hữu t́nh chúng sanh, sau khi
[chính ḿnh] đă thành Phật th́ [sẽ thấy hết
thảy] hữu t́nh chúng sanh đều thành Phật, vẫn
c̣n tạm được. Chứ sau khi đă thành Phật,
cớ sao hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại
địa cũng thành Phật? Nói không thông! Do vậy, lúc
đó, có rất nhiều vấn đề tôi đánh
dấu hỏi, tồn nghi! Đức Phật nói chắc
chắn chẳng sai, nhưng nay chúng ta chẳng có trí
huệ ấy, chẳng nghĩ thông suốt đạo lư
ấy! Nay tôi đă minh bạch, hiểu rơ, hiểu rơ
như thế nào? Kinh Hoa Nghiêm đă nói thấu triệt,
thuở ấy, chúng tôi chẳng đọc thông suốt kinh
Hoa Nghiêm, đọc th́ đọc vậy, tựa hồ hiểu,
nhưng chẳng hiểu, trong ấy có rất nhiều
vấn đề. Trong quá khứ, chúng ta đă học
tập Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ
quốc sư hai lượt, vấn đề ấy
đă được giải quyết. T́nh và vô t́nh đúng
là có cùng một Thể. Khi ta đă thành Phật, hết
thảy chúng sanh đều thành Phật, cây cối, hoa,
cỏ, núi, sông, đại địa toàn bộ đều
thành Phật, thật vậy, chẳng giả! Kẻ giác
ngộ thấy hết thảy các pháp chẳng chấp
tướng. Chẳng chấp tướng sẽ thấy
ǵ? Thấy pháp tánh, Tông Môn nói là “minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật”. Quư vị thấy hết thảy chúng sanh
đều có cùng một điều b́nh đẳng, ở
đây, điều b́nh đẳng ấy được
gọi là “chánh tánh”, tức
là tự tánh, lẽ nào chẳng phải là Phật? Thấy
hết thảy cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại
địa là pháp tánh. Chánh tánh và pháp tánh là một tánh, cùng là
một tánh với tự tánh, chẳng phải là hai tánh.
Hết sức khó có, cận đại,
trong mấy năm gần đây nhất, khoa học tiên
tiến, các nhà khoa học Lượng Tử đă cho chúng
ta biết, đúng là cùng một Thể. Khó có! Lượng
Tử Lực Học cho chúng ta biết vật chất là
thứ ǵ? Là chuyện như thế nào? Họ nói ra sao?
[Vật chất] là hiện tượng do ư niệm dao
động, điều này đă giúp ích Phật pháp rất
lớn. V́ Phật pháp bảo “vạn sự vạn
tướng trong vũ trụ là hiện tượng dao
động”. Các nhà Lượng Tử Lực Học đă
chứng tỏ, đức Phật nói điều này là
thật, chẳng giả! Nhất niệm bất giác bèn có
vô minh, là hiện tượng dao động. “Vô minh bất giác sanh tam tế,
cảnh giới vi duyên trưởng lục thô” (vô minh
bất giác sanh ra ba tế tướng, cảnh giới làm
duyên tăng trưởng sáu thô tướng), đó là nói
về sự phát triển của vũ trụ, trong ấy
sanh ra biến hóa vô lượng vô biên vô tận, chẳng
thể nghĩ bàn! Dẫu nói nhiều đến mấy, nó
là một huyễn tướng, chẳng thật! Nói tóm
lại, vạn pháp đều là Không: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như
chớp”. Hai câu này nói rất hay, các nhà khoa học
Lượng Tử đă thật sự chứng minh.
Đức Phật muốn chúng
ta phải dùng trí huệ ấy, dùng thanh tịnh b́nh
đẳng giác để nh́n thế gian, quư vị mới
có thể thấy chân tướng, mới có thể
thấy hết thảy vạn pháp chẳng sai khác mảy
may. Không chỉ là phàm - thánh chẳng có sai biệt, mà
đều là tự tánh hiện. Phàm - thánh sai biệt ở
chỗ nào? Hiểu rơ tự tánh là thánh nhân, mê hoặc
tự tánh là phàm phu. Phàm - thánh sai biệt ở chỗ mê hay
ngộ, chẳng liên quan ǵ đến tự tánh. Tự tánh
chẳng có mê hay ngộ. Con người có mê hay ngộ,
chứ tự tánh chẳng có mê hay ngộ, phải hiểu
đạo lư này! Vọng tâm có mê hay ngộ, chân tâm chẳng
có mê hay ngộ. Đó là vũ trụ và nhân sinh quan trong nhà
Phật. Do vậy, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă
nói: “Triết học trong kinh
Phật là đỉnh cao nhất trong triết học trên
toàn thể thế giới”, câu nói ấy rất hay.
Mấy câu nói sau đây có thể chứng minh [lời
của cụ Phương], “liễu
tri tự tâm, nhất niệm đốn viên, b́nh
đẳng chánh tánh, phàm thánh cộng hữu, nhất
tế vô sai”.
“Dĩ
bất liễu cố, sở hữu nguyện hạnh giai
bất cụ túc” (do chẳng hiểu rơ nên tất
cả hạnh nguyện đều chẳng trọn
đủ). Nếu chẳng biết chuyện này, sẽ
phiền phức lớn. Phiền phức lớn cỡ
nào? Mê hoặc, điên đảo, tạo nghiệp thọ
báo, luân hồi trong lục đạo. Giác ngộ bèn như
thế nào? Chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo,
vĩnh viễn vượt thoát. Do vậy, quư vị
thường sanh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung măn. Trong tâm
mục của người thế gian, đấy mới
là thật sự đạt đến cuộc sống
hạnh phúc mỹ măn rốt ráo. Chúng tôi đă nói rất
nhiều lần, chuyện này chẳng mảy may liên quan
đến giàu, nghèo, sang, hèn! Giàu, nghèo, sang, hèn là ǵ? Là
nghiệp báo của phàm phu. Khi quư vị giác ngộ, sẽ
hoàn toàn vượt thoát, vượt thoát lục đạo
phàm phu, vượt trỗi những bậc tiểu thánh, thọ
dụng tự nhiên thay đổi. Hôm nay đă hết
thời gian rồi, ngày mai chúng ta lại tiếp tục
học tập.
Tập
112
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm ba mươi ba, hàng thứ ba, xem từ
giữa hàng thứ ba.
“Như
Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết”
(như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận nói),
chúng ta xem từ chỗ này. “Bất
độ Văn Thù trí hải, nan nhập Phổ Hiền
hạnh môn” (chẳng vượt biển trí Văn Thù,
khó nhập hạnh môn Phổ Hiền), hai câu này vô cùng quan
trọng, đặc biệt nhắc nhở các đồng
học học Phật chúng ta nhất định phải
coi trọng trí huệ. Trong xă hội hiện thời, nh́n
trên h́nh thức, giáo dục dường như rất phát
triển, trường học rất nhiều. Quan sát
cẩn thận, tất cả sự giáo dục hiện
thời, chúng ta thường nói là giáo dục gia đ́nh,
giáo dục trong học đường, giáo dục trong xă
hội, cho đến giáo dục tôn giáo, đều
chẳng nhấn mạnh trí huệ, chỉ nhấn
mạnh kiến thức. Chư vị phải biết: Trí
huệ và kiến thức khác nhau, chẳng tương
đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết
thảy vấn đề, giải quyết rất viên măn,
chẳng để lại hậu quả. Kiến thức
có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết
hết thảy vấn đề, có những vấn
đề có thể giải quyết được,
nhưng cũng có những vấn đề chẳng
thể giải quyết, lại c̣n để lại
rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng
biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà
nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến
thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ
chẳng ĺa Giới, Định, Huệ, nhất
định là từ Giới - Định mà khai trí huệ,
trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người
tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí
huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời
hợt, làm sao có trí huệ cho được? Do vậy, vào
thời cổ, tại Trung Quốc, đối với
người đọc sách, điều trọng yếu
nhất là trong cuộc sống hằng ngày phải thể
hiện sự ổn trọng, ít nói, động tác rất
thong thả. Như trong kinh, đức Phật đă nêu
tỷ dụ: “Na Già
thường tại Định, vô hữu bất
định thời” (Na Già thường trong
Định, chẳng lúc nào bất định). Na Già (Nāgá)
là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Long,
hoặc Tượng. Chúng ta chưa thấy rồng,
nhưng đă thấy voi. Quư vị thấy dáng vẻ
của con voi, chúng ta gọi [dáng vẻ ấy] là oai nghi,
rất ổn trọng, nó đứng ở đó,
bước đi cũng rất chậm. Phải học
ổn trọng như vậy, hiển thị đang ở
trong Định. Trong đời này, tôi đă gặp
một người là Chương Gia đại sư, lăo
nhân gia giống như kinh nói “vô
hữu bất định thời” (chẳng lúc nào không
định). Ngài nói với tốc độ rất chậm,
nói từng chữ một. Tôi nói khá chậm, nhưng so với
Chương Gia đại sư, tốc độ của
tôi quá nhanh! Tốc độ nói của Ngài hết sức
chậm, mỗi câu nói từng chữ một, lại c̣n
giữa mỗi câu nghỉ một chút, chẳng nói tiếp
ngay. Đi, đứng, nằm, ngồi vô cùng thong thả.
Lúc tôi quen biết Ngài, lăo nhân gia sáu mươi lăm
tuổi, tôi tin tưởng Ngài đă huấn luyện thành tâm
thái như vậy từ nhỏ.
Bởi lẽ đó, gia giáo
tại Trung Quốc xưa kia dạy dỗ trẻ nhỏ,
từ bé đă dạy con hành động thong thả,
dưỡng thành thói quen rất ổn trọng, tâm rất
thanh tịnh, rất định, dễ dàng khai trí huệ.
Trí huệ có tiểu ngộ, có đại ngộ, có
đại triệt đại ngộ. Tiểu ngộ th́
gần như mỗi ngày đều có. Đại ngộ
một năm cũng có vài lần th́ người ấy có
trí huệ. Con người hiện tại đ̣i hỏi
tốc độ, chuyện ǵ cũng đều phải
nhanh, nhanh đến mức tâm tánh bộp chộp, hời
hợt, chẳng c̣n ổn trọng, đương nhiên trí
huệ cũng chẳng c̣n nữa, toàn là tri thức, cho nên
nẩy sanh vấn đề. Vấn đề nẩy sanh
đầu tiên là thân thể chẳng khỏe mạnh,
rất nhiều bệnh tật, đến tuổi trung
niên sẽ rất rơ rệt. Vào thời cổ, người
có bệnh tật quá nửa là lứa tuổi lăo niên,
chứ trung niên và tráng niên sẽ chẳng có t́nh trạng
ấy, đều là tuổi lăo niên. Hiện thời đă
sớm hơn, ngay tuổi thanh niên cũng xuất hiện
vấn đề, bệnh tật đă lộ ra. Do đó,
cầu trí huệ là trọng yếu, học ổn
trọng là trọng yếu. Nói cách khác, Giới,
Định, Huệ là trọng yếu. Giới học
từ chỗ nào? Từ Đệ Tử Quy, Cảm
Ứng Thiên, hăy nghiêm túc học tập. Chẳng có hai
thứ ấy, nói cách khác, người đó chẳng
tĩnh tâm được, chẳng định
được, biểu hiện bên ngoài chắc chắn là
tâm bộp chộp, vội vàng. Chẳng cần xét ai khác,
từ chính ḿnh cũng có thể nhận biết, tật
xấu ấy chớ nên không sửa. Do vậy, hai câu ở
đây nhắc nhở chúng ta phải khai trí huệ, sau khi
đă khai trí huệ rồi th́ mới có thể bắt tay
học tập hạnh Phổ Hiền. Chẳng phải là
kẻ b́nh phàm không học hạnh Phổ Hiền, kẻ
b́nh phàm cũng học, nhưng chẳng phải là hạnh
Phổ Hiền. Thí dụ như “lễ
kính chư Phật”, ta thấy người khác
đều rất lễ phép, đó có phải là hạnh
Phổ Hiền hay không? Chẳng phải! Hạnh của
quư vị giống như hạnh Phổ Hiền, là bề
ngoài, trong tâm chẳng phải là Phổ Hiền, v́ sao? Trong
tâm c̣n có tự tư tự lợi, c̣n có tiếng tăm,
lợi dưỡng, như vậy th́ chẳng phải là
hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là tâm thanh
tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác chứ không mê, tu lễ
kính chư Phật như vậy chính là hạnh Phổ
Hiền. Do đó, hai câu này rất chánh xác, nếu trí
huệ đă khai th́ ngôn hạnh sẽ tương ứng
với hạnh Phổ Hiền. Nay chúng ta học cách nào
cũng chẳng giống, chủ yếu là v́ tâm chẳng
giống!
Quư vị thấy tâm các Ngài
[được diễn tả] bằng năm câu tiếp
theo, ngày hôm qua, chúng ta cũng đă đọc rồi,
đó là tâm Phổ Hiền. “Dĩ
bất năng liễu tri tự tâm” (do chẳng thể
biết rơ tự tâm), tâm Phổ Hiền là liễu tri
tự tâm. Trước đó, chúng ta thêm vào “bất năng” (chẳng thể), chẳng
thể liễu tri tự tâm bèn là phàm phu. Chẳng thể
liễu tri tự tâm là chưa khai ngộ. Không chỉ quư
vị chưa chứng ngộ, mà giải ngộ cũng
chưa khai. Giải ngộ là hiểu rơ, quư vị vẫn
chưa làm được. Hiện thời, căn bản
là chúng ta chưa hiểu rơ, v́ sao biết là về căn
bản chưa hiểu rơ? Có tự tư tự lợi, có
đúng, sai, ta, người, có lợi, hại,
được, mất, đó là hoàn toàn chưa thể
liễu tri. Thật sự liễu tri, những ư niệm
ấy sẽ chẳng c̣n nữa, chẳng có tự tư
tự lợi, đúng như cổ đức đă nói “ái nhân như kỷ” (thương
người như thương chính ḿnh). Không chỉ
đối với con người, mà đối đăi
tất cả hết thảy sanh vật, hết thảy
vạn pháp, đều thân thiết như đối
với chính ḿnh. Đó là Phổ Hiền Bồ Tát, là
tất cả các vị Bồ Tát trong thế giới
Cực Lạc, v́ sao? Các Ngài đều tu hạnh Phổ
Hiền. Hạnh Phổ Hiền biết vạn sự vạn
vật trong vũ trụ đều do chính ḿnh tâm hiện
thức biến, [tức là] do chân tâm của chính ḿnh
hiện, do tánh thức của chính ḿnh biến, là một,
không hai! V́ thế, “nhất
niệm đốn viên”, ư niệm vừa dấy lên bèn
là công đức viên măn, chẳng có ǵ không viên măn. Như
trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói “trí huệ, đức
tướng”, Ngài quy nạp vạn sự vạn
vật thành bốn chữ “trí
huệ, đức tướng”, chẳng có ǵ không viên
măn. Đức là năng lượng, chúng ta cũng có
thể gọi nó là “năng lực”, Tướng là
tướng hảo, hiện tướng, thảy
đều viên măn. “B́nh đẳng chánh tánh, phàm thánh cộng
hữu, nhất tế vô sai”
(b́nh đẳng chánh tánh, phàm và thánh cùng có, chẳng sai khác
mảy may), bổn tánh của hết thảy các pháp là
một, không hai. Đó là khai ngộ, hiểu rơ. “Dĩ bất liễu cố,
sở hữu nguyện hạnh tất bất cụ túc”
(do chẳng hiểu rơ, nên tất cả nguyện hạnh
thảy đều chẳng trọn đủ), v́ quư
vị không hiểu rơ, chẳng biết, [tức là]
chẳng biết chân tướng sự thật này, quư
vị tu hết thảy nguyện hạnh, “bất cụ túc” là chẳng viên măn, chẳng có ǵ
là viên măn. Chúng ta phải tu công đức ấy viên măn, tu
công đức viên măn, chẳng thể không biết chân
tướng sự thật này. Hiện thời, chân
tướng sự thật này được giảng
rất nhiều trong kinh giáo Đại Thừa, giảng
rất nhiều, giảng rất rơ ràng, luôn luôn nhắc
nhở chúng ta, v́ chúng ta chưa chuyển đổi ư
niệm. Trong khi học tập kinh giáo, nghe cảm thấy
hay lắm, gật gù, lúc tan học, quên tuốt luốt,
trong hết thảy thời, hết thảy chỗ,
vẫn y như cũ, tập khí phiền năo nắm
quyền làm chủ! Tập khí phiền năo tạo
nghiệp, nghiệp có thiện nghiệp và ác nghiệp. Ác
nghiệp chướng đạo, thiện nghiệp
cũng chướng đạo, v́ sao? Quư vị tu hành
chẳng thể viên măn, đó là chướng đạo. Phải
như thế nào mới chẳng chướng? Đoạn
ác, tu thiện, nhưng chẳng chấp trước
thiện - ác, trong Phật pháp nói “tam
luân thể không”, đoạn ác tu thiện phải tu tâm
thanh tịnh, trọn chẳng chấp trước.
Tiếp đó nói: “Hà dĩ cố?”, [nghĩa là] v́ sao phải nói như vậy?
V́ quư vị là “tâm ngoại
khởi tu, tức thành hữu lậu” (khởi tu ngoài
tâm bèn thành hữu lậu). “Tâm
ngoại khởi tu” là ǵ? Quư vị tu nhưng chẳng
tương ứng với tâm nên gọi là “tâm ngoại khởi tu”. Lục đạo phàm phu
tâm ngoại khởi tu, bốn thánh pháp giới vẫn là tâm
ngoại khởi tu. Đến địa vị nào mới
chẳng phải là tâm ngoại khởi tu? Nói theo kinh Hoa
Nghiêm, th́ từ địa vị Sơ Trụ Bồ Tát
như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, bắt đầu từ địa
vị ấy, sẽ tương ứng. Sơ Trụ
Bồ Tát là giai vị ǵ? Là địa vị ǵ? Thuộc
cấp bậc nào? “Đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh” như Thiền Tông Trung Quốc đă
nói chính là địa vị ấy. Địa vị ấy
không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n
vượt thoát mười pháp giới. Ngài ở nơi
đâu? Trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư
Phật Như Lai. Tịnh Độ chúng ta nói tới
“bốn cơi, ba bậc, chín phẩm”, vị ấy văng sanh
trong cơi Thật Báo. Điều này chẳng dễ dàng, có
mấy ai trong hiện thời làm được? Thuở trước,
lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi, cụ nói trong
hiện thời chẳng ai có thể làm được!
Lời ấy là thật, chẳng giả. Buông tự tư
tự lợi xuống, buông tiếng tăm lợi
dưỡng xuống. Buông Ngă Chấp chẳng khó, Tiểu
Thừa đă làm được, nhưng tương
ứng với Pháp Tánh th́ người Tiểu Thừa
chẳng làm được. Quyền Giáo Bồ Tát cũng
chẳng làm được, trong mười pháp giới
không ai có thể làm được. Do vậy, lời
của cụ Hoàng Niệm Tổ là thật, chẳng
giả! Tâm ngoại khởi tu là hữu lậu, “tâm
ngoại” chẳng tương ứng với tâm, tâm là ǵ?
Tâm là pháp vô vi. Huệ Năng đại sư đă nói
rất hay, tâm là thanh tịnh, tâm là bất sanh, bất
diệt. Tâm của chúng ta là ǵ? Tâm của chúng ta là nhiễm
ô, chẳng phải là thanh tịnh, chẳng phải là chân
tâm. Tâm của chúng ta là sanh diệt, tiền niệm vừa
diệt, hậu niệm bèn sanh, nối tiếp nhau, đó
là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Dùng vọng tâm
để tu, tức là chúng ta dùng tâm sanh diệt để
tu, dùng tâm nhiễm ô để tu, bèn thành tựu pháp hữu
lậu. Hữu lậu là ǵ? Hữu lậu là phước
đức. Tu phước đức có lợi ích ǵ chăng?
Có lợi ích, thật sự là đoạn ác tu thiện; dùng
cái tâm nhiễm ô, dùng cái tâm sanh diệt, quả báo là ǵ? Nhân
thiên phước báo. Tiểu phước báo là hưởng
phước trong nhân gian, đại phước báo là
hưởng phước trên cơi trời. V́ phước báo ấy
là hữu lậu nên kèm theo tập khí phiền năo, chưa
đoạn tập khí phiền năo. Đoạn hết
tập khí phiền năo sẽ trở thành pháp vô lậu,
như vậy th́ sẽ tương ứng với tự
tánh.
V́ lẽ đó, chính ḿnh hăy suy
nghĩ, tâm của chúng ta có tương ứng với thanh
tịnh b́nh đẳng giác hay không? Nếu tâm chúng ta thanh
tịnh, sẽ tương ứng với A La Hán. Tâm chúng ta
b́nh đẳng, b́nh đẳng là quyết định
chẳng có phân biệt, bèn tương ứng với
Bồ Tát. Tâm chúng ta giác chứ không mê, sẽ tương
ứng với Phật. Tựa đề kinh này hay quá!
Tựa đề kinh đă dạy chúng ta tiêu chuẩn tu
hành: Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác ngộ.
Nếu đặt vững mục tiêu tu hành nơi đó,
người ấy được gọi là “chân tu”,
tức là người tu hành thật sự. Người
ấy chẳng cầu tiếng tăm, lợi
dưỡng, chẳng cầu phú quư, mà cầu “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đó là ǵ? Đó là cầu thành
Phật. Quư vị thấy nhé, thanh tịnh thành A La Hán, b́nh
đẳng thành Bồ Tát, giác thành Phật, người ấy
tu hành nhằm cầu ǵ? Cầu làm A La Hán, Bồ Tát,
Phật Đà, người ấy thật sự học
Phật, được hết thảy chư Phật
hộ niệm, được long thiên thiện thần
ủng hộ. Chư vị hăy nghĩ xem, nếu tâm
thật sự theo đuổi “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”, trên thế giới này có tai nạn hay
không? Tai nạn ǵ cũng chẳng liên can đến
người ấy, người đó đă giải thoát,
vượt thoát, dẫu thế giới này tốt
đẹp cách mấy đi nữa, người ấy
đă vượt thoát. V́ vậy, người ấy sanh
trong cơi Thật Báo. Cơi Thật Báo trang nghiêm thù thắng khôn
sánh, người ấy có khởi tâm động niệm
ở nơi đó hay không? Chẳng khởi tâm, không
động niệm. Người ấy cũng chẳng
cảm thấy nơi đó rất tốt đẹp.
Nếu cảm thấy nơi ấy tốt đẹp,
chẳng phải là tâm phân biệt đă dấy lên rồi
sao? Có phân biệt bèn có chấp trước, bèn đọa
lạc, người ấy là Phật ở chỗ nào? Do
đó, người ta cư trụ trong ấy, nhưng chẳng
khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm
động niệm c̣n chẳng có, chúng ta bèn có thể
nghĩ là người ấy chẳng có phân biệt,
chấp trước.
Nếu chúng ta dùng tiêu chuẩn
này làm mục tiêu tu học của chính ḿnh, chúng ta thật
sự chẳng phải là hành Bồ Tát đạo, mà là
Phật đạo, tức là đạo để thành
Phật. Khi ấy, Phật pháp là pháp Nhất Thừa, là con
đường thành Phật thẳng tắt. Niệm
Phật hay lắm! Dùng pháp môn Niệm Phật để tu
“đạo thành Phật”, chẳng hề có mảy may tham
cầu pháp thế gian hay xuất thế gian, tâm mong cầu
đoạn sạch sành sanh, ta chỉ cầu tâm “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”. Trong tương lai, sẽ
văng sanh về đâu? Sanh về cơi Thật Báo trong Tây
Phương Cực Lạc. Người ấy chẳng
sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, cũng
chẳng phải là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mà sanh trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Chúng ta có thể làm giống như
vậy hay không? Có rất nhiều người hoài nghi “ta
tội nghiệp quá nặng, chẳng thể đến cơi
Thật Báo. Ta chỉ là hạ hạ phẩm trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư là được rồi, thỏa măn
rồi”. Cũng là khá lắm, chẳng thể nói là quư
vị sai lầm, nhưng Thiện Đạo đại
sư đă dạy chúng ta một câu. Thiện Đạo
đại sư là người đời
Đường, là tổ sư đời thứ hai
của Tịnh Độ Tông, lịch đại truyền
tụng lăo nhân gia là A Di Đà Phật ứng hóa đến
thế gian. Người Nhật Bản rất tin
tưởng, sùng bái pháp sư Thiện Đạo
vượt rất xa người Hoa. Người Hoa tôn
trọng Thiện Đạo đại sư chẳng
nhiều lắm, chứ người Nhật Bản vô cùng
tôn trọng. Quư vị đến Nhật Bản, thấy
trong mỗi chùa miếu có đắp h́nh tượng
Thiện Đạo đại sư, lại c̣n có rất
nhiều tự miếu đề tên là Thiện Đạo
Tự. Do vậy, hễ chư vị thấy Thiện
Đạo Tự th́ đó là đạo tràng Tịnh
Độ Tông, dùng ngay đức hiệu của Thiện Đạo
đại sư làm tên chùa.
Lăo nhân gia đă dạy chúng ta
một câu như sau: “Tây Phương
thế giới, tứ độ, tam bối, cửu
phẩm, tổng tại ngộ duyên bất đồng”
(Bốn cơi, ba bậc, chín phẩm trong thế giới Tây
Phương, nói chung là do gặp duyên khác nhau), câu này nói
thật hay! Chúng ta phải tin tưởng, hiểu ư
nghĩa câu nói ấy của Thiện Đạo đại
sư. Ngài đă dạy rơ: Quư vị văng sanh cơi nào trong
bốn cơi, văng sanh trong phẩm vị nào, điều
ấy được quyết định do gặp duyên
khác nhau. Nay chúng ta gặp duyên vô cùng thù thắng, duyên ấy
là ǵ? Duyên ấy là duyên trong cơi Thường Tịch Quang,
duyên trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng phải là duyên
trong những cơi thấp hơn. Xác thực là chẳng ít, từ xưa đến nay, người
như thế rất nhiều. Những ông già bà cả
ở nông thôn, chẳng biết chữ, nhưng là
người rất thiện lương, nói theo Phật
pháp là “có thiện căn”. Nếu họ gặp duyên, hễ
gặp duyên, bảo họ niệm kinh, họ
chẳng niệm được, cũng chẳng thể
ghi nhớ nhiều ngần ấy. Bảo họ nghe kinh th́
cũng chẳng có ai giảng kinh cho họ, mà giảng kinh
th́ cũng chưa chắc có thể nghe hiểu được!
Gặp một người khuyên họ niệm A Di Đà
Phật, họ bèn thật thà niệm, lúc lâm chung văng sanh,
những người như thế sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. Đó là gặp duyên, nhưng duyên
chẳng thù thắng. Nay chúng ta gặp duyên vô cùng thù
thắng, gặp kinh Vô Lượng Thọ, gặp kinh Hoa
Nghiêm, gặp khá nhiều giáo huấn trong kinh luận
Đại Thừa, duyên ấy quá thù thắng, hiểu rơ
ràng minh bạch bốn cơi, ba bậc, chín phẩm. Chúng ta
cũng hiểu thành Phật, thành Bồ Tát, thành A La Hán
như thế nào, đều hiểu rất rơ ràng. Đó là
gặp duyên bất đồng! Chúng ta có thể buông
hết vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, dùng tâm “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” để niệm một câu A Di Đà Phật, chúng ta
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới
sẽ sanh về nơi đâu? Công phu tốt đẹp bèn
sanh trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ, kém
hơn là sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Câu nói ấy đă
chỉ rơ v́ sao nghe kinh rất quan trọng, nghe kinh có
lợi ích ở chỗ nào? Giúp chúng ta tăng cao phẩm
vị, lại c̣n tăng với một mức độ
rộng lớn!
Trong hiện tiền, chúng ta
sống trên quả địa cầu này, hiện thời
tai nạn rất nhiều, pháp môn này giúp đỡ quư
vị, bất luận tai nạn nghiêm trọng nào, tâm
địa quư vị b́nh an, chẳng mảy may bị ảnh
hưởng bởi tai nạn, tâm quư vị b́nh thản, tĩnh
lặng, chẳng kinh sợ, chẳng hoảng hốt. Quư
vị thấy đó, kinh giáo này có sức mạnh to lớn
dường ấy. Tâm địa an định, chẳng
bị ảnh hưởng, dẫu tai nạn bên ngoài to
lớn đến mấy vẫn chẳng thể ảnh
hưởng quư vị. Dẫu là tử vong trong khi tai
nạn, quư vị sanh ngay về thế giới Cực
Lạc, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Chẳng
t́m được lợi ích thù thắng như thế trong
các pháp môn khác. Chẳng phải là các pháp môn khác không có
[những lợi ích ấy], nhưng công phu đó rất khó
thành tựu. Tịnh Tông dễ dàng, chỉ cần quư
vị chịu hành, chỉ cần quư vị chịu buông
xuống, ai nấy đều có thể làm được.
Buông xuống chẳng phải là buông đằng miệng,
mà phải thật sự làm, làm từ đâu? Từ tŕ
giới, chịu khổ. Trước lúc ra đi, Thích Ca Mâu
Ni Phật đă dạy chúng ta hai câu, Ngài bảo tất
cả các đệ tử: “Lấy
giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Hiện
thời, cuộc sống vật chất rất phong phú,
chúng ta có cần truy cầu hay chăng? Chẳng cần,
cuộc sống khổ sở một chút sẽ tốt
hơn! Nếu có dư dả, hăy giúp đỡ kẻ nghèo
khổ nhiều hơn một chút. Chúng ta sống tiết
kiệm một chút sẽ có thể giúp rất nhiều
người nghèo khổ, đó là ḷng dạ Bồ Tát.
Như trong Liễu Phàm Tứ Huấn có kể, vợ tiên
sinh Viên Liễu Phàm vào mùa Đông may áo bông cho con, dùng loại
bông vải thông thường. Tiên sinh Liễu Phàm thấy
vậy, hỏi: “Trong nhà ty miên[3]
rất nhiều, sao nàng lại dùng bông vải?” Bà ta nói: “Ty
miên đắt tiền, bông vải rẻ hơn, thiếp
đem ty miên bán đi, mua nhiều bông vải, may nhiều
bộ quần áo, con cái có áo mặc, mà những
người nghèo cũng được mặc”. Tiên sinh
Liễu Phàm nghe nói rất hoan hỷ, con cái thật có
phước. Phước do đâu mà có? Người bị
thua thiệt bèn có phước, kẻ chịu khổ bèn có
phước. Ư nghĩa ấy rất sâu, đó là chân lư!
V́ thế, tuy khoa học kỹ
thuật hiện thời phát triển, thứ ǵ cũng
đều thuận tiện, nhất định phải
biết tiết kiệm tài nguyên. Phải biết tiết
kiệm, chớ nên lăng phí, lăng phí sẽ có tội lỗi!
Thứ ǵ cũng phải ăn hết, chẳng thể
ăn chớ nên vứt bỏ, hễ vứt bỏ sẽ
mắc tội. V́ sao? Phải nghĩ, thứ này ăn không
ngon, nhưng trong thế gian hiện thời vẫn c̣n
rất nhiều người đang lâm vào t́nh cảnh
đói khát, chẳng có ǵ để ăn. Nếu họ
gặp được thứ ấy, sẽ [coi như]
của báu, mà chúng ta c̣n chê ỏng chê eo, chê ỏng chê eo là
tạo nghiệp! Chớ nên có phân biệt, đừng nên
có chấp trước, nhất định phải
biết tiết kiệm, thường có chủ tâm giúp
đỡ người khác, đó là điều tốt
đẹp. Người thật sự tu hành, có đức
hạnh, ở nơi nào, nơi ấy có thiên long thiện
thần gia hộ, ít tai nạn. Người thật sự
có đức hạnh có thể làm được, chúng ta có
thể phát tâm ấy hay không? Làm một người
thật sự có đức hạnh hay không? Phải
biết thánh hiền là do con người tu thành, Phật,
Bồ Tát cũng do con người tu thành. Người ta có
thể thành thánh, thành hiền, thành Phật, thành Bồ Tát,
v́ sao ta chẳng làm được? V́ sao người khác
làm được? Họ buông xuống vạn duyên nên làm
được, v́ sao ta chẳng buông xuống
được? Hễ buông xuống liền làm
được. Buông xuống không được, c̣n có
tham, sân, si, mạn, tức là phàm phu. Buông tham, sân, si, mạn
xuống, trước hết phải buông xuống từ
đối tượng, tức là buông tài, sắc, danh
vọng, ăn uống, ngủ nghỉ xuống. Nhục
thân của chúng ta ở trong thế gian này chẳng thể
không có những thứ ấy, nhưng vừa phải là
được rồi, chớ nên có tâm tham. V́ thế, “tri chỉ” (biết ngừng
đúng mức) sẽ gần với đạo! Quư vị
thấy Phật, Bồ Tát, từ trong kinh này chúng ta đă
đọc thấy, trước khi thành Phật, Bồ Tát
dưỡng đạo tại Đâu Suất nội
viện, dưỡng ǵ? Dưỡng “tri chỉ”. Đâu Suất có nghĩa là Tri Túc, Đâu
Suất Thiên là Tri Túc Thiên. Chúng ta đối với hết
thảy đều biết đủ, trong tương lai
sẽ sanh về Đâu Suất Thiên. Kẻ chẳng
biết đủ, sẽ chẳng thể sanh lên cơi
trời ấy! Điều này cho chúng ta biết: Thật
sự tri chỉ, một trăm phần trăm tri chỉ,
người ấy bèn thành Phật. Cổ đại
đức Trung Quốc thường nói: “Tri túc thường lạc” (biết đủ
thường vui), đó là thật. Người ấy
chẳng có ưu lự, rất vui sướng,
được một chút đă rất thỏa ư, chẳng
c̣n mong mỏi nữa!
Câu kế tiếp vô cùng hay: “Dĩ vô biên công đức,
bất ngoại tự tâm” (do vô biên công đức
chẳng ngoài tự tâm), câu này nói rất hay. Vô lượng
vô biên công đức đều do tự tâm của quư
vị thành tựu. Chư Phật Như Lai chẳng hề
cầu cạnh kẻ khác, ngạn ngữ của Trung
Quốc cũng nói rất hay: “Nhân
đáo vô cầu, phẩm tự cao” (con người
đạt đến mức vô cầu, phẩm hạnh
tự cao). Phàm phu, đặc biệt là trong xă hội
hiện tiền này, nói chung, đối với các tin
tức, bất luận là thiện hay bất thiện,
thường mong biết nhiều hơn một chút.
Thật ra, người tu đạo có cần [biết
những tin tức ấy] hay không? Chẳng cần
thiết! Khéo tu tự tâm, công đức bèn viên măn, đó là
đạo lư nhất định. Thường giữ ǵn
tự tâm thanh tịnh, b́nh đẳng. Thanh tịnh và b́nh
đẳng đều thuộc về Định, thanh tịnh
là chẳng nhiễm ô, b́nh đẳng là chẳng dao
động, đó là công phu Thiền Định. “Tùy thuận Chân Như, tu
nhất thiết pháp, tắc năng cụ túc vô biên công
đức” (tùy thuận Chân Như, tu hết thảy các
pháp, có thể trọn đủ vô biên công đức). Chân
Như là chân tánh, nếu quư vị chẳng biết Chân
Như là ǵ, th́ Chân Như chính là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” ngay trong tựa đề
kinh, v́ nó chẳng giả! Trong cuộc sống hằng ngày,
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác
đều tương ứng Chân Như, luôn tương
ứng với Chân Như th́ gọi là Như. Nói cách khác,
tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác, khởi tâm động niệm, tâm địa thanh
tịnh, chẳng có nhiễm ô, tâm địa b́nh
đẳng, chẳng bị dao động, đó là
tương ứng. Ngôn ngữ, tạo tác đều
tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng th́
tâm ấy trụ trong Giới, Định, Huệ.
Giới là tự nhiên chẳng
vượt ngoài quy củ giống như Khổng lăo phu tử.
Khổng lăo phu tử rất khó có, Ngài nói đến lúc bảy
mươi tuổi mới đạt được công
phu ấy: “Tùy tâm sở
dục, bất du củ” (thuận theo ḷng muốn,
chẳng vượt ngoài quy củ). “Củ” (矩) là quy củ, đó là giới luật,
thuận theo ḷng mong muốn, tự nhiên tương ứng
với giới luật, chẳng có mảy may miễn
cưỡng nào, tự nhiên tương ứng. Thích Ca Mâu Ni
Phật biểu diễn cảnh giới này cho chúng ta
thấy, lăo nhân gia thuyết pháp bốn mươi chín
năm, đă thực hiện được. Khổng
Tử bảy mươi tuổi mới đạt
đến cảnh giới ấy. Đó đều là Phật,
Bồ Tát thị hiện, biểu diễn cho chúng ta
thấy. [Sự biểu diễn của Khổng Tử] là
người b́nh phàm, c̣n sự biểu diễn của Thích
Ca Mâu Ni Phật là bậc thượng thượng căn,
Ngài chẳng phải là kẻ b́nh phàm, lúc khai ngộ bèn
thực hiện được, ba mươi tuổi
bắt đầu giáo học th́ đă “tùy tâm sở dục, bất du củ” rồi!
Khổng Tử đă cho chúng ta biết tấn độ
(mức độ tiến triển) trong sự tu học
của Ngài: “Tam thập nhi
lập”, giống như chúng ta học hành hiện
thời, ba mươi tuổi tốt nghiệp
chương tŕnh Tiến Sĩ, giành được
mảnh bằng Tiến Sĩ, đó là “nhi lập”. “Tứ thập nhi bất hoặc”, có
thể tương ứng với trí huệ, chẳng c̣n
bị mê hoặc. “Ngũ
thập tri thiên mạng, lục thập nhĩ thuận”,
“nhĩ thuận” là ǵ?
Bất cứ thứ ǵ cũng đều đă quen
thấy, quen nghe, tâm b́nh đẳng hiện tiền. “Thất thập tùy tâm sở dục”,
đạt được tự tại, chẳng cần
phải miễn cưỡng, mà tự nhiên tương
ứng với Chân Như, tự nhiên tương ứng.
Bảy mươi tuổi [Khổng Tử] mới
đạt đến cảnh giới ấy. Thích Ca Mâu Ni
Phật biểu diễn “đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh”, đạt tới ngay cảnh
giới ấy, biểu diễn cho chúng ta thấy trong
suốt bốn mươi chín năm, măi cho đến khi
lăo nhân gia viên tịch. “Tùy
thuận Chân Như, tu hết thảy các pháp”. Nay chúng ta
học tập những điều được nói trong
kinh này là Chân Như, chỉ dạy chúng ta tùy thuận Chân
Như, tu hết thảy các pháp như thế nào! “Hết thảy các pháp” là trong
cuộc sống thường ngày, khởi tâm động
niệm, đăi người, tiếp vật, chẳng ĺa “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, như vậy th́ sẽ có
thể trọn đủ vô biên công đức.
“Thị
cố, tùng chư Phật sát trung giai năng thị hiện
dĩ hạ, tiêu hiển Văn Thù trí đức” (do
vậy, từ câu “trong các cơi Phật đều có thể
thị hiện” trở đi là nêu rơ trí đức của
ngài Văn Thù). Trong phần trước, chúng ta đă
đọc đoạn kinh văn này, từ “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện”
cho đến “thiện lập
phương tiện, hiển thị tam thừa”,
đoạn kinh văn này toàn là nói về trí đức
của Văn Thù Bồ Tát. “Lệ
như” (chẳng hạn như), cụ Hoàng nêu ví dụ,
ví dụ này sẽ được giải thích trong phần
dưới: “Thí thiện
huyễn sư, hiện chúng dị tướng” (ví
như người giỏi huyễn thuật, hiện các
h́nh tướng lạ), đó là tùy duyên. Hai câu kế
đó: “Ư bỉ
tướng trung, thật vô khả đắc” (trong các
tướng ấy, thật sự là chẳng thể
được). Đó là trí huệ của ngài Văn Thù.
Trong hết thảy các tướng được
hiện, chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước. V́ sao?
Biết những tướng được hiện
ấy là “Tướng có, Thể không”. Bồ Tát biết
tướng chính là Không. Đối với các tướng
được hiện ở ngay trước mặt ta,
biết chúng là trống không, trọn chẳng thể
được, cho nên vị ấy chẳng khởi tâm
động niệm. Phàm phu không biết, ngỡ
tướng là thật có, nên phân biệt, chấp
trước, tạo tác tội nghiệp, chẳng biết
tướng chính là Không. Đó là trí huệ chân thật,
được gọi là trí huệ Văn Thù. Đối
với bốn câu ấy, có thể nói hai câu đầu là
Phổ Hiền hạnh. “Thí
thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng”
là Phổ Hiền hạnh; hai câu sau,
tức “ư bỉ
tướng trung, thật vô khả đắc” là Văn
Thù trí. Chẳng có Văn Thù trí, sẽ tạo tội
nghiệp, tạo nghiệp. Có Văn Thù trí bèn chẳng
tạo nghiệp. Chữ “đẳng”
có nghĩa là đoạn kinh văn từ những câu này cho
đến “thiện lập
phương tiện, hiển thị tam thừa” trong phần sau. “Câu biểu tùng Văn Thù diệu
trí, viên măn Phổ Hiền thắng hạnh” (đều
biểu thị diệu trí Văn thù viên măn hạnh thù
thắng Phổ Hiền), có nghĩa là viên tu vạn
hạnh chẳng ĺa Định - Huệ, ư nghĩa này vô
cùng quan trọng.
Chúng ta xem tiếp, mỗi câu
tiếp theo đây sẽ giải thích, đoạn
trước là nói về đại ư. “Chư Phật sát trung, dĩ hạ cộng bát cú,
hiển hội trung Bồ Tát trí đức” (toàn bộ
tám câu kể từ câu “trong các cơi Phật” trở đi,
chỉ rơ trí đức của các vị Bồ Tát trong
hội), [nghĩa là] tất cả các vị Bồ Tát trong
đại hội này đều có Văn Thù trí đức. Trong phần kinh văn
ấy, “chư Phật sát trung,
giai năng thị hiện (kiến Đường
dịch), biểu chư đại sĩ Phổ Môn thị
hiện chi đức” (“trong các cơi Phật đều có
thể thị hiện” (câu này trích từ bản
Đường dịch), biểu thị đức
“Phổ Môn thị hiện” của các vị đại
sĩ). Thông thường, chúng ta thấy hai chữ Phổ
Môn bèn nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế
Âm Bồ Tát Phổ Môn thị hiện. Trên thực tế,
chỉ cần là minh tâm kiến tánh Bồ Tát sẽ
đều có năng lực ấy, chẳng có vị nào
không phải là Phổ Môn thị hiện. Phổ (普) là phổ
biến, Môn (門) là pháp môn, vô lượng, vô biên, vô số, vô tận,
chúng sanh có cảm, Ngài bèn có hiện. Đức ấy là
năng lực, Ngài có năng lực thị hiện. “Bất đản ư thử quốc
độ thị hiện bát tướng, diệc ư
thập phương thế giới phổ hiện bát
tướng” (không chỉ thị hiện tám
tướng trong cơi nước này mà c̣n hiện trọn
khắp tám tướng trong mười phương
thế giới), thị hiện tám tướng là biểu
trưng, thị hiện thành Phật. Trong Quán Thế Âm
Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có nói: “Ưng dĩ Phật thân nhi độ thoát giả,
tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp” (nên
dùng thân Phật để độ thoát liền hiện
thân Phật để thuyết pháp), câu kinh văn này mang ư
nghĩa nêu ra một trường hợp [hiện thân], [tức
là] Bồ Tát có thể hiện thân Phật. Thân Phật c̣n
có thể hiện, huống hồ các thân khác? Bồ Tát,
Thanh Văn. Duyên Giác, cho đến đồng nam,
đồng nữ, đế vương, tướng quân,
tể tướng, cho đến súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục, há lẽ nào chẳng thể hiện?
Thân Phật c̣n có thể hiện mà! Tức là nói phạm vi
hiện thân của Ngài rộng lớn ngần ấy.
Hiện thân ǵ đều
chẳng do ư nghĩ của chính Ngài. Nếu chính Ngài có ư
nghĩ, Ngài sẽ chẳng phải là Bồ Tát, mà là phàm
phu. V́ sao? Ư nghĩ là phiền năo, Ngài chưa chuyển
được. Chuyển thức thứ sáu, tức ư
thức, thành Diệu Quán Sát Trí, chuyển thức thứ
bảy thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chẳng c̣n ư nghĩ
nữa. Phàm phu có ư nghĩ, lục đạo chúng sanh có ư
nghĩ. Lại thưa cùng quư vị, bốn thánh pháp
giới cũng có ư nghĩ, bất quá họ nhạt
mỏng một chút, chẳng nghiêm trọng như chúng ta.
Họ có ư nghĩ, nên gọi là “phàm phu”. Lục đạo
được gọi là “giới
nội phàm phu”, “giới”
(界)
là tam giới, [“giới
nội” là trong tam giới], tức là lục đạo
luân hồi, tức là luân hồi trong lục đạo. A
La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, gọi là “giới ngoại phàm phu”,
vượt ngoài tam giới, nhưng vẫn là phàm phu, v́ sao?
Họ chưa chuyển phàm thành thánh. Cũng có nghĩa là
người đă chuyển tám thức thành bốn trí th́ là
thánh nhân, chẳng gọi là phàm phu, mà thật sự là
bậc thánh nhân. Chớ nên không biết định nghĩa
của phàm phu trong Phật pháp [như đang
được nói] ở đây, khác hẳn “thánh nhân”
như người Hoa thường nói. “Thánh nhân” của
Trung Quốc là thánh nhân trong nhân gian, sanh về thiên
đạo cũng là thánh nhân, bậc đại thánh đă
sanh thiên. Trong Phật pháp, chẳng phải là như
vậy. Phật pháp nói đến “thánh nhân” th́ bậc
vượt thoát mười pháp giới mới là thánh nhân.
Chưa vượt thoát mười pháp giới th́ vẫn
gọi là phàm phu! Bất quá bốn thánh pháp giới gọi
là “ngoại phàm”, ngoại phàm c̣n được gọi bằng
danh xưng khác là “tiểu thánh”, nhà Phật gọi họ là
“tiểu thánh”. Thánh nhân Tiểu Thừa chưa thoát khỏi
mười pháp giới. Thoát khỏi mười pháp
giới sẽ gọi là “đại thánh”, chẳng phải
là tiểu thánh, mà là đại thánh. Đều có thể
thị hiện, đó là “Phổ
Môn thị hiện chi đức”.
Chúng ta biết những vị
đại sĩ, đại Bồ Tát ấy ở trong cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, dùng tiêu chuẩn trong kinh Hoa Nghiêm
để nói, kinh Hoa Nghiêm nói từ Sơ Trụ Bồ Tát
trở lên, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác,
bốn mươi mốt địa vị ấy. Cư
sĩ Giang Vị Nông chú giải kinh Kim Cang, tác phẩm Kim
Cang Kinh Giảng Nghĩa là chú giải của ông ta.
Đối với bộ kinh Kim Cang, cổ nhân đối
với một bộ kinh, thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài suốt bốn mươi năm. Đổ công sức bốn
mươi năm nơi một bộ kinh, nên có thành
tựu, là người có thẩm quyền nhất về
kinh Kim Cang. Do vậy, phàm những ai nghiên cứu hoặc
học kinh Kim Cang, chẳng thể nào không đọc
bộ Giải Nghĩa của ông ta. Thật sự chịu
học, đọc bộ Giải Nghĩa là đủ rồi,
chẳng cần t́m đọc các bản chú giải khác.
Bản Giảng Nghĩa của ông ta có thể nói là đă
tổng hợp hoàn thiện tất cả những lời
chú giải kinh Kim Cang xưa nay, rất thuận tiện cho
người học kinh Kim Cang. C̣n có một vị cư
sĩ nữa là cư sĩ Châu Chỉ Am, sống vào
thời Dân Quốc, suốt đời chuyên dốc công
sức nơi Tâm Kinh, tức Bát Nhă Tâm Kinh. Chư vị
đều biết Tâm Kinh chỉ có hai trăm sáu
mươi chữ, ông ta dùng thời gian bao lâu? Cũng là
tốn bốn mươi năm, viết thành bộ chú
giải Tâm Kinh Thuyên Chú, tổng hợp hoàn thiện các
lời chú giải Tâm Kinh của các vị đại
đức xưa nay, rất tuyệt diệu! Trong thời
kỳ Mạt Pháp, hai vị ấy đă nêu gương
rất hay cho những người phát tâm nghiên cứu kinh
giáo. Gương mẫu ấy chính là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Thành tựu
của họ khiến cho người khác tán thán, bốn
mươi năm dùi mài chẳng bỏ một bộ kinh,
trở thành người chú giải có thẩm quyền
về một bộ kinh. Nay quư vị nói tới kinh Kim Cang
hay nói tới Tâm Kinh, chẳng thể không biết đến
hai bản chú giải ấy!
Hai vị ấy cuối cùng
đều niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
văng sanh Tịnh Độ, chúng ta có thể suy ra các vị
ấy chẳng ở trong cơi Đồng Cư, mà cũng
chẳng ở trong cơi Phương Tiện, hai vị
ấy sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Điều này chẳng
giả chút nào! V́ sao? Họ có trí huệ! Kim Cang Bát Nhă và Bát
Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh đều là trí huệ, lại
c̣n là trí huệ của Văn Thù! Đă có trí huệ Văn
Thù, đương nhiên viên măn hạnh Phổ Hiền thù
thắng, chắc chắn là như vậy! Do đó, chúng ta
biết: Các vị ấy văng sanh trong cơi Thật Báo. Chúng ta
phải thật sự học theo, gương tốt
đă bày ra trước mặt, suốt đời chẳng
thay đổi phương hướng, suốt
đời chẳng lan man sang pháp khác, chuyên dốc công
sức nơi một bộ. Do đó, họ có năng
lực ở trong hết thảy các cơi Phật trong
mười phương, ứng với ḷng cảm của
chúng sanh, chúng sanh mong hăy dùng thân Phật để
độ, các Ngài sẽ giống như Thích Ca Mâu Ni
Phật, thị hiện tám tướng thành đạo,
phổ độ chúng sanh trong thế giới của họ.
Sơ Trụ Bồ Tát có năng lực ấy, nên cư
sĩ Giang Vị Nông đă dùng bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm
để giải thích từ ngữ “chư Phật Như Lai” trong kinh Kim Cang. Bốn
mươi mốt địa vị chính là “chư”, “chư” là
nhiều! Bốn mươi mốt địa vị
ấy đều là chư Phật Như Lai. Do vậy,
tại Trung Quốc, trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật”.
Trong Tịnh Độ Tông,
phương tiện thù thắng khôn sánh, một
người hạ quyết tâm “trong một đời này,
ta quyết định phải văng sanh thế giới
Cực Lạc, mảy may hoài nghi đều chẳng có”,
người ấy sẽ thành Phật trong một
đời, viên măn trong một đời. Ai biết? Chư
Phật Như Lai biết, chư Phật Như Lai
chứng minh cho người ấy. Trong sách Yếu
Giải, Ngẫu Ích đại sư đă dạy chúng ta
đạo lư ấy. Người niệm Phật có thể
văng sanh hay không, được quyết định bởi
có tín nguyện hay không? Quư vị có ḷng chân tín, có chân
nguyện, tôi thật sự tin tưởng, thật sự
mong về thế giới Cực Lạc, tức là quư
vị hội đủ điều kiện văng sanh thế
giới Cực Lạc, nhất định sẽ sanh
về. Tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới, phẩm vị cao hay thấp, Ngẫu Ích đại sư nói, đó là do công
phu niệm Phật của quư vị sâu hay cạn. Công phu
tốt đẹp, phẩm vị văng
sanh cao. Công phu kém hơn một chút, phẩm vị thấp
hơn. Hai câu ấy nói rất hay. Ấn Quang đại
sư bội phục hai câu ấy năm vóc sát đất.
Lịch đại tổ sư đại đức
giảng kinh Di Đà, chú giải kinh Di Đà, trọn
chẳng hé lộ tin tức ấy. Ngẫu Ích đại sư hé lộ cho chúng ta
biết, khiến cho người tu Tịnh Độ
cầu văng sanh kiên định tín tâm. Nếu thường
xuyên hoài nghi “ta có thể sanh về thế giới Cực
Lạc hay không?” th́ do thường hoài nghi, sự văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng
phải đánh dấu hỏi. Thật vậy! Chẳng biết
quư vị có nắm chắc hay không? Người có tín tâm
kiên định quyết định được văng
sanh, Ngẫu Ích đại sư đă chứng minh
cho quư vị. Người thật sự cầu văng sanh,
chỉ nói miệng suông không được, phải có hành
động, hành động là ǵ? Đối với thế
gian này, thật sự chẳng có một mảy may lưu
luyến nào, thật sự buông xuống, đấy
mới là chân tín, chân nguyện. Nếu c̣n tham luyến
thế gian này, c̣n có một mảy may chẳng buông
xuống được, sẽ chẳng phải là chân tâm,
chẳng phải là chân nguyện. Chân tâm, chân nguyện là triệt
để buông xuống, chẳng có lưu luyến mảy
may nào, người ấy quyết định văng sanh.
Trong kinh này, “thí thiện huyễn sư” là tỷ dụ, “hiện chúng dị tướng”
(hiện các tướng lạ).
Nay chúng ta gọi “huyễn
sư” là ảo thuật gia, làm tṛ ảo thuật. Khi
chúng ta xem họ biểu diễn, trong các chương tŕnh đại
nhạc hội có biểu diễn ảo thuật. Tại
Ấn Độ vào thời cổ, họ được
gọi là “huyễn sư”,
người Hoa gọi những người “biến ma thuật” (làm tṛ ảo
thuật) là “ma thuật sư”
(magician). “Trí Độ Luận viết: Tây Phương hữu huyễn thuật nhân” (Trí Độ
Luận ghi: “Phương Tây có kẻ làm huyễn thuật”),
những người làm ảo thuật có thể làm
những tṛ biến hóa. “Nhất
thiết giai năng hóa hiện, cung điện, thành, quách,
lang vũ, kết cân vi thố, thụ đới vi xà,
chủng chủng biến hiện đẳng” (hết
thảy đều có thể hóa hiện, cung, điện,
thành, quách, hành lang, ṭa nhà, thắt khăn làm thỏ,
dựng dây lưng làm rắn, đủ các thứ biến
hiện v.v...), đây là nói tới những kỹ xảo
biến hiện của nhà ảo thuật, nêu lên vài thí
dụ để nói. Chẳng có cung điện, ông ta có
thể biến huyễn cung điện cho quư vị
thấy, biến huyễn thành tŕ, lầu gác, những
kiến trúc như cung điện, hành lang dài, có thể
biến hiện những hiện tượng, có thể
biến một chiếc khăn tay thành con thỏ, biến
một chiếc thắt lưng thành con rắn, biến
hiện những tṛ vui ấy cho quư vị xem. Thật ra,
quư vị biết tất cả đều là giả,
chẳng có thứ ǵ là thật. Ở đây, đức
Phật mượn tỷ dụ này để nói, tỷ
dụ cho dễ hiểu. “Cố
kim tá thuật giả chi huyễn hóa” (nên nay mượn
sự huyễn hóa của người làm ảo thuật),
sự biến hóa của người làm ảo thuật, “dĩ dụ đại sĩ chi
Phổ Môn thị hiện” (ḥng tỷ dụ sự
Phổ Môn thị hiện của bậc đại sĩ).
Những vị Pháp Thân đại sĩ, tức là bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ trong các thế giới chư Phật khắp
mười phương, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài
bèn có ứng, khi ứng bèn hiện thân. Ngài hiện thân
thuận theo ư niệm của chúng sanh. Chúng sanh muốn Ngài
hiện thân ǵ, Ngài bèn hiện thân ấy, chẳng phải
do chính ḿnh, các Ngài chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm. Không khởi tâm, không động niệm, đó là
Trí. Chính ḿnh thị hiện độ chúng sanh, có chấp
tướng độ chúng sanh hay không? Chẳng chấp
trước, v́ sao? Tướng của chúng sanh là trống
không, tướng do chính ḿnh thị hiện cũng là
giả, có ǵ tốt lành để chấp trước?
Thảy đều chẳng chấp trước,
điều này gọi là “tam
luân thể không”, tức là chẳng chấp trước
tự tướng, chẳng chấp trước tha
tướng, và cũng chẳng chấp trước các
thứ phương pháp phương tiện thiện
xảo được sử dụng để giúp
đỡ chúng sanh trong ấy. Thảy đều không
chấp trước, biết phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng. Tự tướng, tha
tướng, các thứ hiện tướng, không ǵ
chẳng phải là hư vọng.
Trong mắt các Ngài, hoàn toàn
thấy những cảnh giới ấy là hư vọng,
hoàn toàn hiển lộ viên măn trước mắt chúng ta, v́
sao chúng ta chẳng thấy? Chúng ta bị những
tướng ấy mê hoặc, ngỡ chúng là thật.
Điều này có nghĩa là tâm chúng ta bị nhiễm
bẩn. Tâm giống như nước, bị nhiễm
bẩn, dao động. Dao động bèn nổi sóng gió,
nước ấy bèn mất đi tác dụng chiếu soi.
Tâm Bồ Tát thanh tịnh, bất động, b́nh
đẳng, chẳng dao động, giống như
nước trong vắt, chẳng nổi sóng, giống
như một tấm gương, chiếu cảnh giới
bên ngoài rơ ràng, rành rẽ. V́ vậy, trong cảnh giới,
các Ngài chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước. Chúng ta
đánh mất [tác dụng] Chiếu, Chiếu là trí huệ.
Do đâu mà có trí huệ? Trí huệ do thanh tịnh b́nh
đẳng mà có, thanh tịnh b́nh đẳng là Thiền
Định. Chư vị phải hiểu: Tâm thanh tịnh
b́nh đẳng là chân tâm của chính ḿnh, nay đang bị
nhiễm ô, bị dao động, tâm ấy gọi là
vọng tâm. Vọng tâm chẳng rời khỏi chân tâm, là
sóng chẳng rời khỏi nước. Nước là chân
tâm, sóng là vọng tâm. Thanh tịnh là chân tâm, nhiễm ô là
vọng tâm. Chúng ta có chấp trước là nhiễm ô, có
phân biệt bèn có dao động. Chúng ta phải học
tập trong cảnh giới, học ǵ vậy? Đầu
tiên là học chẳng nhiễm ô, mắt thấy sắc, tai
nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, chẳng bị nó ảnh hưởng. Tiếp xúc,
chẳng dấy lên tự tư, tự lợi, chẳng
khởi tham, sân, si, mạn, chẳng bị chúng quấy
nhiễu. Trông thấy bèn rất hoan hỷ, tức là
bị nhiễm bẩn. Trông thấy rồi cảm thấy
đáng ghét, cũng là bị nhiễm bẩn. Ta trông
thấy bèn mong chiếm hữu, muốn khống chế,
đều là bị nhiễm bẩn. Phải thời
thời khắc khắc cảnh giác điều này.
Tới công ty bách hóa một
chuyến chẳng sao cả, người thật sự tu
hành thường đến đó, v́ sao? Thấy những
thứ ấy mà chẳng động tâm, đó là chân tu hành,
Định - Huệ giữ quân bằng. Xem là ǵ? Hiện
thời, khoa học kỹ thuật phát triển, sản
phẩm khoa học lại đổi khác mỗi ngày
mỗi tháng, mỗi ngày đến xem, đó là trí huệ,
quư vị hiểu rơ, như như bất động,
đó là “định công”
(công phu định lực). Thật sự tu Định
chẳng phải là ngồi xếp bằng ngó vào vách, mà là
dạo trong công ty bách hóa mỗi ngày, chân tu Thiền
Định, chân định, chẳng phải giả!
Xếp bằng ngó vào vách mấy năm, nhưng đến
công ty bách hóa một chuyến vẫn khởi tâm
động niệm, thôi rồi! Quư vị xem năm
mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, các vị
trưởng lăo tu Thiền Định ở chỗ nào? Tu trong công ty bách hóa, là nơi náo nhiệt
nhất. Họ đi dạo phố, Thiện Tài
đồng tử đến tham phỏng họ, biết
họ đang tu Thiền Định trong ấy.
Người ta thấy họ dạo phố, cũng xem cái
này, cũng ngó cái kia, nh́n Đông, ngó Tây, nhưng Thiện Tài
đồng tử biết đó là Thiền Định
thật sự. Phải hiểu điều này, phải
thật tu, phải thật luyện, phải thật
sự luyện công phu, đoạn trừ tham, sân, si,
mạn, nghi. Chẳng tiếp xúc cảnh giới bên ngoài,
sẽ chẳng đoạn được, giả
trất, chẳng phải là thật. Nếu tiếp xúc mà
thật sự đoạn được, đó là
thật, chẳng giả. Do vậy, tiên sinh Phương
Đông Mỹ thuở trước giới thiệu
triết học kinh Phật cho tôi, bảo Phật pháp
vốn đạt đến cái thật, chẳng phải
là đạt đến cái giả, trải qua thí nghiệm
bằng năm mươi ba lần tham học. Chẳng
trải qua thí nghiệm th́ nói theo khoa học, chẳng
thể coi là thật. Thông qua thí nghiệm th́ mới là
thật, chẳng giả chút nào. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là
bộ kinh được giảng đầu tiên sau khi
đức Thế Tôn thành đạo, là pháp luân viên măn, là
bộ kinh bậc nhất trong Phật môn.
“Ư
bỉ tướng trung, thật vô khả đắc”
(trong các tướng ấy, thật chẳng có ǵ
để có thể được). Chữ “tướng” chỉ y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, cũng là
như kinh Kim Cang đă nói: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.
Phàm những ǵ có tướng, không chỉ bao gồm
mười pháp giới, mà c̣n kể cả cơi Thật Báo
Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. V́ sao? Cơi Thật
Báo Trang Nghiêm có tướng. Trong hết thảy các kinh,
đức Phật chưa hề nói: “Phàm những ǵ có
tướng đều là hư vọng, ngoại trừ
cơi Thật Báo Trang Nghiêm”, chẳng nói câu ấy! Chẳng nói
câu ấy th́ chúng ta biết cơi Thật Báo cũng là hư
vọng. Ǵ là chân thật? Chân thật chỉ có một,
chẳng có thứ hai, đó là cơi Thường Tịch
Quang. Thường Tịch Quang là chân thật, chẳng
giả! V́ sao? Vĩnh hằng bất biến. Cơi Thật
Báo do đâu mà có? Qua học tập kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi
mới biết, chứ trong quá khứ, đây là một nghi
vấn, cũng là bao nhiêu năm đều chẳng thể
giải quyết, chẳng nghĩ ra. Cơi ấy do đâu mà
có? Bồ Tát tu hành đạt đến đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sanh trong cơi
Thật Báo. Chúng ta có thể suy tưởng, những
người đại ngộ ấy, khởi tâm
động niệm đă đoạn trừ. Chẳng
khởi tâm, không động niệm, đương nhiên
phân biệt và chấp trước đă sớm chẳng
c̣n! Thế giới ấy là thế giới b́nh
đẳng, v́ sao có hiện tướng? Phải biết, đúng
là Nhất Chân pháp giới thuần chân vô vọng. [C̣n các
Bồ Tát trong cơi Thật Báo] tuy đă thuần chân, vẫn
c̣n mang theo vọng, nên vẫn chưa bỏ được
tướng. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta có thể thấy
tin tức ấy, tin tức ǵ vậy? Kinh Hoa Nghiêm [nói hàng Pháp
Thân đại sĩ] c̣n có bốn mươi mốt
địa vị. Bốn mươi mốt địa
ấy do đâu mà có? Người đă đạt
đến “không khởi tâm, không động niệm”, c̣n có
địa vị ǵ nữa? Có địa vị là có phân
biệt, có phân biệt th́ có chấp trước; do
vậy, họ là phàm phu. V́ vậy, chúng ta phải thảo
luận vấn đề này. Chúng ta thấy trong kinh có nói
một câu, “vô thỉ vô minh
phiền năo đă đoạn”, cũng [có nghĩa] là thật
sự chẳng khởi tâm, không động niệm, đă
đoạn vô minh phiền năo, nhưng tập khí chưa
đoạn! Tin tức ấy khiến cho chúng ta cuối
cùng tỉnh ngộ. Vô thỉ vô minh đă đoạn,
nhưng tập khí chưa đoạn, bốn mươi
mốt địa vị là do tập khí dầy hay mỏng
mà chia ra. Càng lên cao, tập khí càng mỏng, cho đến khi
tập khí hoàn toàn chẳng c̣n nữa, vị Bồ Tát
như vậy được gọi là Phật Đà,
đă đạt đến Phật quả viên măn rốt
ráo, tập khí chẳng c̣n nữa! Do vậy, ta có thể
biết, cơi Thật Báo do tập khí biến hiện.
Chẳng có tập khí, cơi Thật Báo cũng chẳng có. Cơi
Thật Báo chẳng có th́ chỉ c̣n lại một cơi là
Thường Tịch Quang Tịnh Độ, đó là
thật, là tự tánh, trở về tự tánh là
Thường Tịch Quang. Do vậy, cơi Thường Tịch
Quang gọi là Diệu Giác, Diệu Giác là Thường
Tịch Quang, Thường Tịch Quang là Diệu Giác. Cơi
Thật Báo, chẳng có khởi tâm động niệm,
nhưng có tập khí. Vô thỉ vô minh đoạn trừ,
nhưng tập khí vô thỉ vô minh vẫn c̣n. Chỉ
cần tập khí hăy c̣n th́ có tướng cơi Thật Báo.
Tập khí chẳng c̣n, tướng của cơi Thật Báo
cũng chẳng c̣n. Chúng ta mới hiểu rơ ràng, rành
rẽ, đúng là “phàm những
ǵ có tướng đều là hư vọng”.
Những vị Bồ Tát ấy
“nhân thật tri thị
huyễn, cố ư huyễn bất mê” (do thật
sự biết là huyễn, nên chẳng mê nơi huyễn),
các Ngài biết ngay cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai đều là biến huyễn,
chẳng phải là thật, huống hồ mười pháp
giới, huống ǵ lục đạo. Hiểu rơ ràng, minh
bạch, đối với các cảnh giới ấy
chẳng có mảy may mê hoặc nào. Thật sự khế
nhập cảnh giới ấy, nếu quư vị thấy
trên địa cầu tai nạn hiện tiền th́ sẽ
giống như ǵ? Giống như chúng ta xem phim 2012 trong
rạp chiếu bóng, đó là huyễn, chẳng phải là
thật sự! Biến ra h́nh trạng ấy, biểu
diễn trước mặt quư vị, quư vị bèn thấy
chân tướng, giống như đang xem phim. Có khởi
tâm động niệm hay không? Chẳng khởi tâm, không
động niệm. V́ sao? Quư vị hiểu nhân như
thế, duyên như thế, quả như thế, báo như
thế, nó đang biểu diễn ở nơi đó.
Diễn ǵ vậy? Diễn nhân duyên quả báo chẳng sai
mảy may! Có liên can với chính ḿnh hay không? Chẳng dính
dáng mảy may, v́ sao? Thân này của chính ḿnh cũng là
huyễn, cũng chẳng thật. Đối với cảnh
giới, chẳng khởi tâm động niệm,
đối với tự thân, cũng chẳng khởi tâm
động niệm, đó là giải thoát, là đắc
đại tự tại. V́ thế, chẳng có trí huệ
sẽ không được. Chẳng có trí huệ sẽ
ngỡ là thật, [đă coi là] thật sự bèn có khổ
thọ. Quư vị biết là giả sẽ chẳng có
khổ. Cổ đại đức cũng nói một câu
danh ngôn, dạy chúng ta hăy thật sự thấy thấu
suốt, dẫu bị giết chặt đầu, vẫn
chẳng cảm thấy kinh hăi: “Tương
đầu lâm bạch nhận” [nghĩa là] đem kề
dao sát cổ, “do như trảm
xuân phong” (giống như chém gió xuân). Quư vị thấy
họ tự tại lắm, tiêu sái dường ấy!
Người chưa nhập cảnh giới ấy, sẽ
chẳng thốt nên lời ấy được! Do tri
huyễn nên người ấy chẳng mê.
“Như
Bảo Tích kinh trung, Học Huyễn thiên tử thuyết
kệ tán Phật viết: Như huyễn sư tác
huyễn, tự ư huyễn bất mê, dĩ tri huyễn
hư cố, Phật quán thế diệc nhiên” (Như
trong kinh Bảo Tích, Học Huyễn thiên tử[4]
đă nói kệ tán Phật: “Như huyễn sư biến
huyễn, tự chẳng mê nơi huyễn, v́ biết
huyễn hư vọng. Phật quán sát thế gian, cũng
giống như vậy đó”). Mấy câu này nói hay quá. Nay
chúng ta sống trong thế giới này, nếu học thông
suốt mấy câu này, quư vị chẳng có chút ưu lự
nào, mà cũng chẳng có mảy may kinh hăi nào! Huyễn
sư là ai? Câu này phải nói rơ ràng. “Huyễn sư” là ư niệm, trong giáo pháp
Đại Thừa, đức Phật đă nói rất
nhiều lần: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, “huyễn sư” là tâm
tưởng. Phải biết: Chư Phật và Pháp Thân
Bồ Tát chẳng có tâm tưởng, các Ngài chẳng
phải là huyễn sư, do chẳng có tâm tưởng.
Huyễn sư là kẻ có tâm tưởng, đều là
huyễn sư, tự làm, tự chịu, chính ḿnh biến
hóa trong ấy để chính ḿnh tự thọ dụng.
Chẳng phải là Phật, Bồ Tát biến hóa, mà do chúng
sanh trong mười pháp giới biến hóa. Người
trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm tuy vẫn c̣n có tập khí vô
thỉ vô minh, nhưng cũng chẳng biến hóa. Do
vậy, quư vị phải thấy rơ ràng chỗ này,
chẳng phải là Phật, Bồ Tát biến hóa, mà do chúng
sanh trong mười pháp giới biến hóa, v́ họ
hữu tâm, hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng, tâm ấy là vọng tâm, họ có vọng tâm.
Vọng tâm là ǵ? Khởi tâm động niệm, phân
biệt, chấp trước, đó là huyễn sư; nhưng
những kẻ ấy chẳng biết đó là huyễn,
đă mê rồi. Những người trong cơi Thật Báo và
cơi Thường Tịch Quang đều biết, biết
quư vị là huyễn sư, mà cũng biết quư vị
biến ra các huyễn pháp ấy, biết rơ ràng, rành rẽ.
Các huyễn sư ấy tuy biến huyễn, nhưng chính
ḿnh chẳng mê, [giống như] kẻ làm ảo thuật
biết rơ. Kẻ ấy làm ảo thuật cho người
khác xem, chứ kẻ ấy chẳng mê. Người khác mê,
chứ kẻ ấy chẳng mê! Tỷ dụ chỉ có
thể sánh ví đến một hạn độ nhất
định, chẳng có cách nào tỷ dụ khít khao,
chẳng thể nào hoàn toàn phù hợp được!
Nay chúng ta là huyễn sư mà
chính ḿnh cũng mê luôn, vấn đề ở chỗ này.
Chính ḿnh đă mê, [biến huyễn] cho người khác xem,
người khác mê mà chính ḿnh cũng bị mê luôn! Những
vị Pháp Thân Bồ Tát trong cơi Thật Báo và chư Phật
Như Lai trong cơi Thường Tịch Quang đều
chẳng mê mảy may nào. Do quư vị đă mê, mê là có
cảm, cảm có hữu tâm và vô tâm, có hữu ư và vô ư. Tuy
nhiên, dẫu là vô ư cảm, Phật, Bồ Tát cũng có
thể tiếp nhận, cũng có thể hiện thân
thuyết pháp, từ bi vô tận mà! Các Ngài biết căn
tánh của quư vị, nên Phật, Bồ Tát v́ quư vị
hiện thân thuyết pháp, quư vị tin tưởng, có
thể lư giải, chịu học theo các Ngài, các Ngài bèn
đến. Nếu quư vị chẳng tin tưởng,
chẳng thể lư giải, các Ngài sẽ không đến.
Các Ngài chẳng cần khởi tâm động niệm,
người ta là trí huệ chiếu kiến, giống như
trong Tâm Kinh đă nói: “Quán
Tự Tại Bồ Tát”, các vị đại Bồ Tát
trong pháp hội này có năng lực b́nh đẳng với
Quán Âm Bồ Tát, chẳng có sai biệt, đều là Pháp
Thân đại sĩ, họ biết như thế nào? “Hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa
thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”,
người ta là Chiếu Kiến, giống như một
tấm gương, giống như vô tuyến điện
trong hiện thời, các Ngài có thể tiếp nhận, mà
cũng có thể phát sóng. Bất luận chúng sanh hữu ư
hay vô ư, hữu tâm hay vô tâm, hễ sóng phát ra, các Ngài
đều nhận được. Vừa nhận
được, các Ngài liền hoàn toàn hiểu rơ, tự
nhiên hiện thân, v́ chúng ta thuyết pháp, đến dạy
bảo chúng ta, giúp chúng ta giác ngộ, giúp chúng ta quay
đầu. Tuyệt đối chẳng có khởi tâm động
niệm, nếu khởi tâm động niệm th́ các Ngài
bèn đọa lạc, biến thành phàm phu! Phàm phu tự
cứu ḿnh c̣n chưa được, làm sao có thể
cứu người khác?
“Dĩ
tri huyễn hư cố, Phật quán thế diệc nhiên”
(do biết huyễn là hư vọng, đức Phật quán
thế gian cũng giống như thế). Như Lai nh́n
thế gian này, thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới giống như Pháp
Thân Bồ Tát và chư Phật Như Lai quan sát thế gian
này giống hệt như nhau, chẳng có thứ ǵ là
thật, chẳng có thứ ǵ là thực tại! Đối
với chân thật và hư vọng, nhà Phật định
nghĩa: Chân là vĩnh hằng bất diệt,
đấy là Chân. Hễ có biến hóa, hễ có sanh
diệt, th́ toàn là giả, đều chẳng thật.
Đức Phật nói câu này chúng ta rất khó hiểu, v́
sao? Đúng là chúng ta chẳng thể lư giải. Đức
Phật nói đến sự sanh diệt, chẳng phải
là hiện tượng [sanh diệt] như chúng ta đă nói.
Con người được sanh ra là sanh vào thế
giới này, người đă chết là diệt mất
rồi, chết mất rồi, chẳng phải là ư
nghĩa ấy. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát
quán sanh diệt là quan sát hiện tượng dao
động vô cùng vi tế. Do các nhà khoa học Lượng
Tử cận đại đă hé lộ tin tức, chúng ta
mới dần dần thấu hiểu ư nghĩa chân
thật của mấy lời Phật dạy ấy. Tuy các
nhà Lượng Tử Lực Học không hiểu thấu
suốt cho mấy, nhưng chỉ cần đôi chút là chúng
ta đă có ngộ xứ. Các nhà Lượng Tử Lực
Học nói vật chất là giả, chẳng thật,
về căn bản bèn chẳng có vật chất. Một
sợi lông của chúng ta là vật chất, một hạt
cát là vật chất, đem mài hạt cát thành bột, mỗi
hạt bột ấy vẫn là vật chất, nhục nhăn
của chúng ta c̣n có thể thấy được, cớ
sao nói vật chất chẳng tồn tại? Bản
chất của vật chất là ǵ? Là ư niệm, nhiều ư
niệm tích lũy lại một chỗ, quư vị thấy
dường như có thứ ǵ ở nơi đó, thấy
có vật chất, bản chất của vật chất là
thứ ấy.
Thông qua tin tức ấy, chúng ta
ngay lập tức hiểu rơ lời Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, vật chất sanh từ tâm
tưởng, lập tức khiến cho chúng ta quay lại
[quán sát] A Lại Da Thức. Trong kinh Phật, đức
Phật đă giảng A Lại Da Thức. Ba tế
tướng của A Lại Da Thức, thứ nhất là
Nghiệp Tướng, [chúng ta] đă biết: Nghiệp
Tướng là dao động, tức ư niệm dao
động. Thứ hai là Chuyển Tướng, Chuyển
Tướng là ư niệm. Ư niệm do đâu mà có? Ư niệm
từ dao động mà có, gọi là “nhất niệm bất giác”, đó là dao
động thứ nhất. Do dao động, Chuyển
Tướng mới biến thành Cảnh Giới
Tướng, Cảnh Giới Tướng là vật
chất. Đối với điều này, chúng tôi
đột nhiên hiểu rơ đạo lư đức Phật
đă giảng, trước kia tuy đọc, nhưng
mơ hồ, đọc chú giải của cổ nhân
cũng mơ hồ. V́ thế, đối với
Đại Thừa Phật pháp, Lượng Tử Lực
Học có cống hiến rất lớn, tuy họ chưa nói
rất rơ ràng, nhưng nó có rất nhiều lư luận,
khiến cho chúng ta vừa tiếp xúc, vừa suy
tưởng những điều đă nói trong kinh bèn ngay
lập tức hiểu rơ, mới biết tất cả
hết thảy hiện tướng trước mắt, “phàm những ǵ có tướng,
đều là hư vọng”, chúng ta có thể lư giải.
Tuy chưa phải là chứng ngộ, [chỉ là] giải
ngộ. Nhưng có thể giải ngộ, quư vị sẽ
có thể xem nhẹ, chẳng c̣n chấp trước
như thế nữa, biết chấp trước là sai
lầm, chấp trước là khổ! Trong Phật pháp nói “bát khổ giao tiên” (tám nỗi
khổ chen nhau nung đốt), do đâu mà có? Do chấp
trước mà có. Buông chấp trước xuống,
chẳng c̣n khổ nữa! Nói tóm lại, chẳng có
một pháp nào chẳng phải là “tự làm, tự
chịu”, phải hiểu rơ ràng, rành rẽ đạo lư
này. Đă hiểu rơ th́ trong bất cứ hoàn cảnh nào, sẽ
chẳng oán trời trách người, sẽ không trách móc
kẻ khác có lỗi với ta, sẽ chẳng có ư niệm
ấy, đều là “tự làm, tự chịu”. Lại c̣n
nghĩ nghiệp nhân quả báo, chẳng sai sót mảy may!
V́ thế, Phật pháp dùng sáu
chữ để bao quát toàn bộ hết thảy các pháp
trong vũ trụ, có lư lắm! Sáu chữ ấy là “tánh - tướng, lư - sự,
nhân - quả”, sáu chữ ấy đă nói trọn hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, không có ǵ ra
ngoài sáu chữ ấy. Trong sáu chữ ấy, chỉ có Tánh
là thật. Trừ Tánh ra, Tánh có thể sanh, có thể
hiện, những thứ khác toàn là giả, là cái
được sanh, được hiện, chẳng có ǵ
là thật. Danh từ Phật giáo gọi căn nguyên
của tất cả hết thảy hư huyễn là A
Lại Da. Nó là cội nguồn, hết thảy hiện
tượng phát sanh từ nó. Bản thân nó là hư vọng
nên biến hiện tất cả cảnh giới thảy
đều hư vọng. Đúng là “phàm những ǵ có tướng, đều là hư
vọng”, “hết thảy
pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Kế
đó, đức Phật nêu tỷ dụ: “Như lộ, diệc như điển, ưng tác
như thị quán” (như sương, cũng như
chớp; hăy nên quán như thế). Quư vị có cách nh́n
như vậy, giống như cách nh́n của Phật,
Phật tri, Phật kiến, kinh Pháp Hoa bảo là “nhập Phật tri kiến”.
Chúng ta học Phật, đối với những kinh
văn giống như thế này, hăy niệm nhiều, nghe
nhiều, xem nhiều, từ từ sẽ bất tri
bất giác khởi tác dụng, tác dụng ǵ vậy? Lạt
lẽo đối với tất cả hết thảy các
pháp thế gian. Thật sự lạt lẽo, sẽ
chẳng c̣n chấp trước như vậy nữa,
chẳng c̣n chấp trước nghiêm trọng như
trước kia nữa. Ư niệm chấp trước, phân
biệt đă nhạt dần, tâm càng ngày càng thanh tịnh,
càng ngày càng b́nh đẳng, càng ngày càng tương ứng
với Phật, Bồ Tát. Càng gần, tức là sẽ thành
Phật chẳng xa. Nhất là chúng ta được
gặp pháp môn Tịnh Tông, bản thân chúng ta rất có tín
tâm, thật sự có thể coi đạm bạc hết
thảy, phẩm vị khi văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ sẽ tăng cao với một mức
độ lớn, tăng lên tới cơi Thật Báo chẳng
phải là chuyện không thể, mà là rất có thể. Nay
đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập
tới đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 56 hết
[1] Tám vị tổ này nói đúng ra là cách phán
định theo Chân Ngôn Tông (Shingon shū) của
Nhật Bản, thường gọi là Đường
Truyền Mật Tông (hay gọi tắt là Đường
Mật), nhằm phân biệt với Mật Tông Tây Tạng.
Tám vị tổ là Đại Nhật Như Lai, Kim Cang Tát
Đỏa Bồ Tát, Long Mănh Bồ Tát, Long Trí Bồ Tát, Kim
Cang Trí Tam Tạng (hoặc Thiện Vô Úy Tam Tạng, tùy
thuộc phán định theo hệ thống Kim Cang Giới
hay Thai Tạng Giới), Quảng Trí Bất Không Tam
Tạng, Huệ Quả A Xà Lê (hoặc Nhất Hạnh A Xà
Lê), Hoằng Pháp Không Hải đại sư (Kobo Kukai,
người Nhật).
[2] Kinh Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Kinh trong Mật Tạng quyển thượng, phẩm Tựa đă chép như sau (dẫn theo bản dịch của cư sĩ Huyền Thanh): “Bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai nói về pháp tâm địa bí mật Du Già chân thật thuộc cảnh giới của chư Phật này th́ vô lượng vô biên cơi Phật ở mười phương đều chấn động sáu cách. Lầu gác Đại Ma Ni Bảo Tối Thắng của cung Đế Thích trong cơi Tam Thập Tam Thiên trên đảnh núi Diệu Cao cũng bị chấn động. Trời mưa hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa rải lên trên đức Phật và các đại chúng. Lúc đó, các đại chúng thấy vô lượng vô số hằng hà sa cơi Phật ở mười phương bị chấn động sáu cách và lầu gác Đại Ma Ni Bảo của cung Đế Thích trên đảnh núi Diệu Cao bị chấn động sáu cách th́ khởi niệm rằng: “Hiện nay Đức Như Lai hiện đại thần biến, do nhân duyên nào mà có điềm này?” Bấy giờ đức Như Lai biết tâm niệm của các đại chúng trong hội nên bảo rằng: “Các ngươi ở đây đừng sanh nghi hoặc. Nay ta đă nói về pháp thâm diệu là tâm trong tâm của chư Phật ba đời. Tất cả pháp Phật nhiếp vào kinh này, tất cả pháp Phật từ kinh này mà ra. Pháp đó gọi là Đối Pháp Vi Diệu Đại Thừa Du Già thuộc cảnh giới chân thật của tất cả Như Lai. Đây là tâm của tất cả Như Lai, bí mật tối thắng của Kim Cang Chân Ngôn”. Khi ấy, từ tâm của chư Phật xuất ra pháp đó rồi, liền lúc đó, Bạt Già Phạm Phổ Hiền Đà La Ni là pháp bí mật này biến thành vô lượng vô số vành trăng tṛn đầy. Vành trăng tṛn đầy nay hay khiến cho tâm Bồ Đề của chúng sanh được thanh tịnh. Vô lượng vô số vành trăng tṛn đầy này ở hai bên phải trái của tất cả Như Lai. Từ vành trăng này hiện ra vô lượng vô số Đại Trí Kim Cang của Như Lai. Đại Trí Kim Cang từ mặt trăng đầy hiện ra lại nhập vào trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Y theo sức diệu kiên cố của Kim Cang Tát Đỏa tam-muội cùng với sức đại oai đức của tất cả Như Lai, cho nên vô lượng vô số trí huệ Kim Cang hợp thành một tụ ngang bằng với hư không, hiện ra đại quang man. Quang man như vậy liền được biến thành Kim Cang Ngũ Cổ (chày kim Cang có năm chấu) là trí tánh bền chắc của diệu thân, ngữ, ư của tất cả Như Lai, từ tâm của chư Phật xuất ra trụ ở trong hai ḷng bàn tay của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Từ Kim Cang này xuất ra mọi thứ sắc quang. Vô lượng vô số ánh sáng của tướng mạo Kim Cang tràn đầy tất cả thế giới, b́nh đẳng không ngại. Ánh sáng của Kim Cang này lại theo miệng tuôn ra hiện Pháp Thân vô ngại của Như Lai với số lượng ngang bằng số hạt bụi nhỏ của mười giới, tràn đầy biển pháp giới. Do nhân duyên ǵ mà tràn đầy pháp giới? Ấy là các Như Lai được huệ b́nh đẳng với đại thần thông, hiện ra “năng giác ngộ” tất cả chúng sanh khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề khéo hay thành tựu mọi thứ diệu hạnh khó suy tư của Phổ Hiền, sức Nhân Chủng Tánh của tất cả Như Lai khéo hay gần gũi cung kính cúng dường cây đại Bồ Đề, hay diệt tất cả ác ma Ba Tuần chứng đại Bồ Đề. Tự “Năng Giác Ngộ” hay chuyển pháp luân tối diệu vô thượng cho đến hay giúp đỡ hết tất cả chúng sanh tận giới hư không, hay làm lợi ích an vui. Tất cả Như Lai khéo hay thành tựu Tất Địa tối thắng của đại trí thần biến. Tất cả Như Lai khéo hay thị hiện mọi loại thần biến y theo thể của Phổ Hiền tam-muội với lực ḥa hợp bền chắc vi diệu của Kim Cang tam-muội, cho nên xuất hiện thân của Phổ Hiền Đại Bồ Tát. Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát đứng ở trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nói lời kệ rằng: “Lành thay! Phổ Hiền, ngă hiếm có, Tánh chân thật bền của diệu thể, do sức bền chắc không h́nh tướng, v́ lợi sanh nên hiện sanh thân”. Khi ấy, Phổ Hiền Bồ Tát từ trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai đi ra, đến trước mặt chư Phật ngồi trong vành trăng, tay phải cầm chày Kim Cang xoay chuyển trong ḷng bàn tay. Lúc đó, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai nhập vào tam-muội Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Bất Hoại Trí Đại Tam Ma Gia. Y theo sức tam-muội đó v́ Phổ Hiền Bồ Tát khiến cho được đại pháp luân vi diệu của uẩn giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của chư Phật, lợi ích chúng sanh, đại Tam Ma Gia của trí đại phương tiện cứu độ trọn hết tất cả giới chúng sanh, tất cả tự tại chủ, tất cả đại an lạc thâm tâm ái lạc cho đến trí b́nh đẳng tánh của tất cả Như Lai, thần thông tối thắng, đối pháp của Đại Thừa. Các quả như thế là Tất Địa của tất cả Như Lai, Kim Cang v́ muốn trao vào tay của Phổ Hiền Đại Bồ Tát, v́ muốn trao cho thể Chuyển Luân Vương của tất cả Như Lai, v́ muốn trao cho sự nghiệp Phật chẳng thể tư nghị của tất cả Như Lai, v́ muốn trao cho lụa trắng quán đỉnh của măo báu, cho nên đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai dùng hai tay của Ngài trao cho ấn Kim Cang. Thời tất cả Như Lai cho [Phổ Hiền] danh tự quán đảnh, hiệu là Kim Cang Thủ”.
[3] Ty miên (絲棉) gọi cho đủ là “tàm ty miên”, tức là các sợi tơ tằm
đánh xù như bông g̣n. Loại này rất đắt. Trên
thị trường hiện thời, các loại gọi là
ty miên đều là sợi tổng hợp.
[4] Đoạn này trích từ hội Bồ
Tát Kiến Thật trong kinh Đại Bảo Tích, phẩm
thứ 20, tức phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Kệ
Tán, quyển 71.